PHÁC THẢO DIỆN MẠO HÒ KHOAN LỆ THUỶ (P5)

                                                       Thế hệ nghệ nhân lớn tuổi
3. NHỮNG GIÁ TRỊ CỦA HÒ KHOAN LỆ THỦY.

Nghiên cứu giá trị dân ca cần xem xét trên nhiều bình diện, song có ba vấn đề không thể thiếu đó là: Giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật và giá trị âm nhạc của nó. Trong hò khoan Lệ Thủy những vấn đề đó thể hiện như sau:

3.1. Chủ đề nội dung - cái tôi trữ tình trong hò khoan.

Trong số gần 2000 câu hò sưu tầm được thấy rằng, nội dung mà hò khoan đề cập là rất phong phú. Có những cái to tát như nhân tình, thế thái, sự đời, chuyện quan trường, quốc sự. Cho đến tình cảm, trao duyên, thậm chí chỉ là một chút trách cứ, than phiền. Thống kê cho hết thì e không thể, nhưng đại lược thì có thể thấy cái tôi trữ tình mà hò khoan đề cập thể hiện qua những nội dung chính như sau:

- Tình yêu đất nước, quê hương sâu nặng bắt nguồn từ núi non, sông biển, cây đa, bến nước của nơi chôn nhau, cắt rốn. Mảnh đất Lệ Thủy nhỏ hẹp nhưng may mắn có cả ba vùng biển, núi, đồng bằng. Chẳng ở nơi đâu địa lý tự nhiên lại đẹp như Lệ Thủy. Chắn gió biển khơi là một dãy đồi cát trắng, có ngọn cao cả trăm mét. Chang chang cồn cát, trắng lóa vào ngày hè nhưng trong cát bỏng đó vẫn mát rượi dòng nước ngầm ngọt lịm. Nước không chỉ chảy thành dòng suối nhỏ mà còn tạo thành hồ, đầm mênh mông vạn khoảnh ngay cạnh biển khơi như Bàu Sen, được ví như Nhị Hồ ở Trung Quốc. Đồng bằng Lệ Thủy nổi tiêng là phì nhiêu. Đã có câu ca “Nhất Đồng Nai, nhì hai huyện”. Ít tai ngờ rằng giữa cái đoạn thắt ấy lại có một vùng ruộng mênh mông, chằng chịt sông ngòi, phù sa lớp lớp. Thứ phù sa được chở từ dãy Trường Sơn qua mỗi mùa mưa bão, lũ lụt. Ruộng hổi ở Lệ Thủy phải cày bằng hai trâu mới đi nổi. Có vùng người cũng không đứng xuống ruộng được vì bùn lầy sâu vài mét. Người đi cấy lúa su phải dùng hai cây tre đặt nằm xuống mặt ruộng mà đứng chân. Cấy giật lùi đến đâu thì nhấc một chân lên, kéo cây tre lùi xuống. Núi rừng Lệ Thủy kéo mãi đến biên giới Việt – Lào, tài nguyên vô tận. Gỗ quý, song mây, trầm kỳ… thứ gì cũng có. Một thời hợp tác xã nào cũng có một đội “Sơn tràng” ở miết trên rừng khai thác gỗ.

Thiên nhiên là vậy, song lao động thật quả nhọc nhằn bởi quanh năm hết gió lào bỏng cháy, lại bão tố lũ lụt ngập tràn. Nhiều khi lúa chín, miếng ăn trông thấy rồi mà chỉ một đêm mưa là lũ ngập trắng đồng. Vậy nên, trong câu hò xứ Lệ thấm đẫm chuyện buồn.

“Thân em khó nhọc trăm bề,
Sớm lên đồng cạn, chiều về đồng sâu.
Có gương không kịp rẹ đầu,
Có cau không kịp têm trầu mà ăn.

Ấy vậy nhưng lúc nào người Lệ Thủy cũng lấy ngọn núi cao Đâu Mâu, phá Hạc Hải, sông Kiến Giang để mà nhớ, để mà ví von, mượn nó mà nói nỗi lòng thương nhớ, tình chung thủy. Hình tượng “Đâu Mâu vi bút, Hạc Hải vi nghiên” trở đi trở lại trong hò khoan lệ thủy nhiều lần.

“Núi Đâu Mâu cao bao nhiêu trượng
Sông Lệ Thủy sâu bấy nhiêu tầm; 
Dừng chèo đợi bạn tri âm;
Non mòn, biển can, vẫn nhất tâm đợi chờ”

Đôi khi cái sự tan, hợp của tình duyên người ta cũng liên tưởng đến sông nước đất quê. Dẫu có ngọn nguồn ở tận đâu, dẫu có thác ghềnh cách trở nhưng cũng không ngăn cản được Kiến Giang tìm về nơi Hạc Hải, hội nhập làm một cho trọn nghĩa vẹn tình. Sông có nghĩa tình như người vậy, tất không thể chia xa.

“Cầu Tràng Kênh dầu có phân đôi ngả
Sông Lệ Thủy dầu có cách phá trở ghềnh
Vì em có nghĩa có nhơn nên gương vỡ lại lành
Đôi lứa ta kết trọn để cho mình nên duyên”

Cũng có khi vươn vai đứng đón gió hương đồng sớm mai mà cảm cái nỗi nhớ về người yêu thương. Nghe đâu đó trong gió nồm nam hương lúa, hương tóc, hương tình mà ví von. Mà cách ví von cũng thật chân quê, mộc mạc nhưng rất sâu đậm nghĩa tình.

“ Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát
Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng bát ngát mênh mông
Thân em như chẹn lúa đòng
Phất phơ trước ngọn gió nồng ban mai.”

Quần quật đầu tắt mặt tối, lam lũ chốn mom sông hay đầu ngọn suối mò cua, bắt ốc. Đói cơm rách áo nhưng lòng dạ chỉ nghỉ về nhau. Quyết một lòng vì nhau, có nhau, không bao giờ đổi thay.

“Nước ròng em xuống sông mò cua bắt cá,
Nước nậy em lên rừng hái rau má, rau mưng.
Đắng cay mặn ngọt đã từng,
Dẫu chàng ăn thiếp nhịn, xin đừng quên nhau.”

Nói tóm lại, những núi cao, sông rộng, mênh mông cánh đồng, cây cầu, bến nước của miền quê ấy luôn làm cho con người Lệ Thủy nặng lòng trắc ẩn với quê hương. Tình yêu quê hương là một thuộc tính cha truyền con nối của người Lệ Thủy. Đi đâu, ở đâu thì câu hát đồng giao, câu hát ru, câu hò cũng vẫn níu kéo họ về quê.

- Hò khoan Lệ thủy luôn nhắc nhủ con người sống giữ trọn chữ hiếu, chữ trung, nghĩa nhân, chung thủy. Thấm nhuần giáo hóa của đạo Nho, đạo Khổng trong cái mối lương duyên phụ tử, phu phụ, đệ tử. Một lòng thờ mẹ kính cha, chung thủy vợ chồng, trọn nghĩa bè bạn, đùm bọc xóm giềng. Đây là một trong những nội dung nổi trội của hò khoan. Bởi như đã nói, mảnh đất Lệ thủy đầu sóng, ngọn gió, ngút lửa chiến tranh. Trong cảnh loạn ly đó mà không nghĩa tình, chung thủy, không cố kết, đùm bọc thì chẳng ai còn.

Trước hết đó là chữ “hiếu”, chữ hiếu được nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong lời của hò khoan. Những lời ca tụng công cha, nghĩa mẹ sinh thành, nuôi dưỡng. Khi thì “đắng nước, nghẹn cơm”, khi thì “thân cò lặn lội” quãng vắng chiều đông, lặn ngụp trên đồng vớt lúa ngập lụt, ngửa mặt than trời “Trách ông trời ăn ở không cân; Kẻ ăn không hết người lần không ra”. Khi đêm đông gió buốt chỗ ướt mẹ nằm. Khi thì cha còn mịt mù đi phu, đi lính “tấm phên hư, nuộc lạt đứt” mà chẳng biết cậy nhờ ai. Vậy nên khi giao duyên người ta luôn nhắc nhau.

“Công sinh thành cù lao dưỡng dục
Trong dạ anh chính khúc vò tơ
Công ơn thầy mẹ biết tính răng chừ
Thiếp theo chàng cho được, chớ nghi ngờ chuyện chi”

Hoặc:
“Ơn song thân cù lao dưỡng dục
Nghĩa cưu mang chính tháng còn dư
Lấy chi đền nghĩa mẹ chừ
Vì gia bần, trí đoãn, sau phụ mẫu “động cư” có chàng”

Bởi vậy nên, trai gái từ lúc tìm hiểu nhau, đến lúc thành thất thành gia không bao giờ phai nhạt tình phụ mẫu. Hò khoan đã cho họ những bài học thuộc lòng về chữ hiếu.

Sâu nặng, mặn nồng là chữ “tình” của nghĩa vợ chồng, lúc nào người ta cũng ví nó như cao như núi, sâu như sông, như biển. Là nghĩa tào khang, mà vàng son cũng không đổi được. Vậy nên lúc nào họ cũng dặn dò nhau:

“Lòng lại dặn lòng non mòn bể cạn
Dạ lại dặn dạ đá nát vàng phai
Dặn rằng bạn chớ nghe ai
Đã nghe ai thì xin chớ, vãng lai chốn này”

Hể mà xa nhau là ví như chim xa rừng, cá xa nước, cầu cất, đò neo.Là mong nhớ, trông ngóng “Như giang trông lửa; như đại hạn chờ mưa”. Ra ngóng vào trông.

“Thiếp xa chàng ra đàng ngó vội
Thấy được mặt rồi dạ đói cũng no
Không tin cứ để đó anh dò
Ai bắc cầu cho biết, ai chèo đò cho hay”

Nghĩa tình phu phụ keo sơn, chia bùi sẻ ngọt, lên non, xuống biển, no đói có nhau. Nên chỉ xa nhau thôi đã thấy trống trãi, rã rời, cơm không muốn ăn, nước không muốn uống. Nghe con hạc kêu, vượn hú nhớ chồng chan chứa lệ rơi

“Con nhạn lạc bầy nó kêu oái oái
Con vượn lìa cành cắn trái khóc than
Vắng người thương châu lệ nhỏ tràn
Thôi cam đành chịu vậy, nỏ thở than chi chừ”

Đến như chàng xa nhà chỉ có ba tháng (ba trăng) mà đã sầu tương tư:

“Thiếp xa chàng tấm phên hư, nuộc lạt đứt
Chàng xa thiếp khi đói nước nghẹn cơm
Ba trăng là mấy mươi hôm
Mai nam vắng trước chiều nồm quạnh sau”

Trong thời loạn ly, mà Quảng Bình, Lệ Thủy thì đã có bao giờ yên, cái cảnh chinh phụ của nhiều thế hệ cứ nối dài ám ảnh những người phụ nữ đất này lúc nào cũng nơm nớp phải chia xa, lúc nào cũng hoang mang cảnh mất chồng. Người chinh phụ còn có cái mà mong chờ như “ngọn đèn leo lét” nhưng người đàn bà mất chồng thì phải sống kiếp trầm luân. Vậy nên, nội dung nỗi niềm chinh phụ được nói đến rất nhiều trong hò khoan Lệ Thủy.

“Anh ra đi đầu đơn lính mộ
Hai chữ tang bồng ở chỗ người ta
Sao không thương con thơ ấu với mẹ cha già
Khi mưa khi nắng thiếp phận đàn bà khó khăn”

“Vắng bạn ta ngày tha đêm thiết
Duyên số tự trời ly biệt bấy lâu
Hiềm vì sông sâu chưa bắc được cầu
Nên đò ngang lỡ chuyến dạ sầu lắm thay”

Khi mất mát họ than thở:

“Duyên đã may cớ sao lại rủi
Nghĩ nguồn cơn thêm tủi dạ chàng
Liễu hờn tủi phận hồng nhan
Ai xui mà lại dỡ dang thế này”

Tình chồng nghĩa vợ sâu nặng đến vậy nên khi duyên phận trắc trở, chia lìa thì thật đau đớn. Nhiều câu hò trách duyên phận nghe như xé lòng, đứt đoạn ruột gan.

“Trúc xa mai vì ai rứa hử
Thiếp xa chàng tâm sự chơi vơi
Thương thân đây với hởi trời
Kẻo chưa bao lăm ngày tháng, sao đã đổi dời nợ duyên.”

- Tha thiết, mặn nồng đó là mảng hò khoan nói về tình yêu trai gái. Bất chấp tất cả, mặc kệ nắng mưa, bão tố, mặc kệ bom đạn, binh đao, mặc kệ mẹ cha gã bán, mặc kệ trái ngang, tình yêu vẫn đơm hoa, kết trái. Cái cách trai gái đến với nhau qua hò khoan thật là độc đáo. Nhiều khi chỉ là bắt lời đối đáp lúc chèo thuyền trên sông, nhắn nhủ xa gần bên cối gạo, gửi gắm từ bờ bên ni qua bên nớ là tình yêu đã được khơi nguồn.

“Gió mát trăng thanh bạn lành chưa thấy mặt
Thoảng nghe tiếng hò lúc nhặt, lúc khoan
Đêm nằm mà dạ không an
Nghe lời bạn thốt, băng ngàn ra đi”

Hay: 

“Anh đứng xa cách ba trộ sáo
Nghe tiếng em hò cuốn áo ra đi
Mấy đời, mấy thuở, mấy khi
Trai thanh gặp lại nữ nhi chốn này”

Trong hò khoan, những câu chuyện yêu đương người ta gọi là hò “kết vấn”. Mà đã hò kết vấn là nó có lớp lang hẳn hoi, đi từ chào hỏi, thăm dò đến trao duyên, gửi ý. Khi đã mãn cuộc chơi thì tam biệt, chia xa, hẹn hò gặp lại. Chúng ta bắt gặp ở đây những câu ướm hỏi tế nhị, những câu trao duyên tình tứ cứ như sợ phải nói ra. Những lời xe duyên, kết phận thiết tha, thề nguyền gắn bó đến đầu bạc răng long. Những lời than thở nhớ nhung khi cách mặt, cách sông trở hói, cha mẹ cản ngăn, người đời lá lay chia rẻ. Những nỗi ai oán trách duyên, hờn phận khi lỡ làng.
Khi mới gặp nhau người ta hò thế này:

“Em có chồng chưa nói cho anh biết
Anh có vợ rồi cũng nói thiệt cho em hay
Để khi ra đường lỡ có cầm tay
Sợ người thương em đứng, đó buông rày khó buông”

Sau cái màn chào hỏi là buông lời ong bướm, tán tụng nào là “mắt phượng, mày tầm”, “môi đỏ tợ son”, nào là khuôn trăng đêm thu khiến anh “càng ngó càng đẹp, càng nhìn càng ưa”… Đôi khi còn ướm thử hay là em chỉ chuộng “nơi mâm thau bịt bạc, nơi chén kiểu bịt vàng”. Dẫu có đã xiêu lòng rồi đấy nhưng là thân gái liễu yếu đào tơ thì vân phải tình trong như đã, mặt ngoài vẫn e.

“Thương anh không dám thương nhiều
E mai có kẻ mĩ miều hơn em”

Được lời như cỡi tấm lòng, đây là cơ hội để người ta giã bày, trần tình thề thốt dẫu nay mai có “Chộ non cao không sấp mặt; Chộ sông dài không xây lưng”. Dẫu gặp “Phá Tam Giang anh cũng lội, núi Mâu Son anh cũng trèo”. Đến thế thì gì mà chẳng xiêu lòng, rồi cảm, rồi yêu. Mà đã yêu thì:

“Dẫu rằng thầy mẹ có đan rọ thả trôi
Thả trôi thì thả thiếp không thôi nghĩa chàng”

Vậy là đã hẹn ước, thề nguyền trao thân, gửi phận. Nhiều khi cuộc vui thâu đêm, suốt sáng, giã hết gạo họ đổ cả trấu vào giã. Thế rồi cuộc giao duyên cũng đến hồi từ tạ. Tiếp đó là chuỗi ngày trong ngóng khôn nguôi, nhớ mong gia diết “cơm ăn không đặng, nước uống nõ vô”, chỉ mong thấy mặt nhau là được

“Thiếp xa chàng ra đàng ngó vội
Thấy đặng mặt rồi dạ đói cũng no
Không tin để dạ mà dò
Ai bắc cầu cho biết, ai chèo đò cho hay”

Trong yêu đương, thời gian và không gian thật không bình thường. Người ta dành cho nhau cả đêm dài để tình tự nhưng khi chia xa, dứt áo ra về thì thấy như “vừa bén tiếng, quen hơi”. Xa nhau mới có một ngày mà tưởng như “đằng đẵng ba thu”. Trong thời gian chia xa ấy họ như mộng du, nửa mê, nửa tỉnh.

“Sầu tương tư nên hư nhan sắc
Ốm đau gì mà thuốc bắc thuốc nam
Ước chi thiếp được gặp chàng
Hoa tê dầu héo cũng rỡ ràng lại tươi”

Thường thì người ta khóc khi gặp điều mất mát, cùng cực, uất ức, đau khổ. Nhưng với những kể yêu nhau, nước mắt rơi vì mong nhớ, đợi chờ. Với họ, nước mắt làm vơi bớt nỗi buồn chia xa nặng trĩu trong lòng.

“Vắng mặt em một ngày lòng anh dao cắt
Vắng mặt em hai ngày nước mắt lâm li
Mấy lời chàng dặn thiếp hãy nhớ ghi
Chớ thay lòng đổi dạ, chớ phân ly tội trời”

Ấy là chưa kể khi gặp phải trái ngang, cách trở, không đến được với nhau. Mà dưới thời phong kiến xưa thì chuyện đó không phải hiếm. Những rang buộc của “môn đăng, hộ đối”, của đạo làm con phải nghe lời cha mẹ, cha mẹ đặt đâu con ngồi đó. Duyên phận lỡ làng, thì câu hò thật là ai oán.

“Xưa kia tưởng kết đôi phường hội
Thiếp đã đưa tay ra thay gối chàng kê
Nay vì ai mà không trọn đạo phu thê
Liếc mắt nhìn người thương buổi trước, châu lệ cứ dầm dề chẳng khô”

Trong hò khoan, có rất nhiều câu hò than thân trách phận nhưng thực ra là mượn lời để tố cáo những rang buộc vô lý làm chia cắt tình yêu. Phần lớn những câu trách cứ đó dành cho thầy, mẹ. Vì thầy mẹ “ngăn duyên rẽ thúy”, “chỉ vì thầy ngăn, mẹ đón, cho phiền dạ em”. Rồi “dạ em thương thầy mẹ khiến đừng”, “con thương thầy mẹ đón ngăn” rồi thì”tại thầy mẹ dứt đường tơ duyên”. Có lẽ họ không thấy được căn nguyên sâu xa của lễ giáo phong kiến nên chỉ hờn thầy, dỗi mẹ.

“Thầy mẹ ở nhà không bao dung lượng cả
Nên hai đứa mình đôi ngã bắc nam
Đêm năm canh trong dạ bàng hoàng
Hẹn cùng chàng chung thủy, nhưng chớ vội vàng tóc tơ”

Nói là vậy, nhưng đôi khi họ cũng quyết nổi loạn, dẫu biết “công sinh thành, ơn dưỡng dục” nhưng một hai cũng quyết vì tình, dẫu có đau đớn vì đòn roi,

“Ví dầu thầy mẹ có đánh chính chục, một trăm
Đánh rồi em lại dậy, em vẫn nhất tâm theo chàng”

Thậm chí quyết liệt hơn, dẫu có chết

“Thiếp từ thân thiếp cho trọn với chàng một đôi”

Có lẽ không thể nói hết được câu chuyện tình yêu đôi lứa trong hò khoan. Càng đọc, càng nghe, càng đắm say với những ca từ đằm thắm, dịu dàng, thiết tha nồng hậu, đôi khi ai oán của những người dân quê mộc mạc sau lũy tre làng.

Chủ bút: Hỗn Tạp Blog

Hỗn tạp blog, blog lưu giữ tất cả các bài viết hay trên mạng internet, từ tin tức công nghệ, cho đến sức khỏe, làm đẹp. Từ thủ thuật blogger cho đến Facebook

Có thể bạn sẽ thích

Có 0 nhận xét Đăng nhận xét