PHÁC THẢO DIỆN MẠO HÒ KHOAN LỆ THUỶ (P4)

                                                    Những nghệ nhân thế hệ thứ ba
b, Hò đưa linh

Hò đưa linh là lối hò phục vụ cho đám tang, nó diễn ra suốt thời gian tang gia từ khi người chết đã được khâm liệm, phát tang, cho đến khi chôn cất xong. Thông thường, hò đưa linh chỉ diễn ra trong những đám tang người già đã qua tuổi lão (xưa các cụ đến tuổi 50 là cáo lão). Hò khoan là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian để tạo niềm vui trong lao động. Nhưng hò đưa linh, một lối hò khoan lại được hò trong đám tang. Hò vừa để chia buồn nhưng hò cũng là để thưởng thức văn hóa. Người ta đến đó, ngoài việc chia buồn, còn để thưởng thức giọng hò hay, ngôn hay ý đẹp. Bởi theo các cụ, người cao tuổi mất đi được coi như đã hưởng phúc trời, lộc đất nên không có gì phải đau buồn lắm. Xưa, còn có lễ mừng thọ, mừng thượng thọ, đại thọ. Vào ngày đó, con cháu còn làm lễ tế sống cho cha mẹ. Ở những nhà khá giã, người ta còn thuê thầy làm một bài văn ai, kể lại cuộc đời, công ơn của người đã mất đối với con cháu, làng xóm dưới dạng lục bát để hò. Ở một số vùng văn hóa khác, trong đám tang người ta cũng có hình thức “khóc mướn”. Người khóc mướn là một thành viên trong phường bát âm, khi nhận được thông tin về quan hệ thứ bậc của người nhờ khóc với người chết (chú, bác, cô, dì…) là người ta sẽ khóc một đoạn kể kể với linh hồn người chết thay cho người đến viếng. Người khóc có thể tự sáng tạo tức thì lời lẽ mà không bị ràng buộc bởi cấu tứ, giai điệu của âm nhạc. Hò đưa linh không cho phép như thế, nó phải nằm trong khuôn phép của làn điệu, của hình thức diễn xướng. Câu hò phải là lục bát, song thất lục bát hoặc biến thể của nó.

Hò đưa linh thường là do các nghệ nhân làm “hò cái”, đội “âm công” là “hò con”, đế xố, diễn xướng. Vai trò các nghệ nhân dân gian trong hò đưa linh là rất quan trọng. Bởi, trong một không gian lễ nghi đượm chất buồn đau ấy thì người hò cái phải “thuộc bài”. Không thể lấy những bài hò có nội dung vui vẻ, lả lướt như khi hò giã gạo được. Không những thế, người hò cái còn phải biết lựa chọn các mái hò sao cho âm hưởng của nó phù hợp với khung cảnh. Người hò con là thành viên trong đội âm công, được tập hợp từ các con, cháu, người thân của tang gia. Ngoài chức năng xố con, họ còn nhiệm vụ diễn xướng chèo cạn lúc ở nhà, lúc chèo thuyền đưa linh trên sông, lúc nện đất lấp mồ. Mới thấy hò khoan ở Lệ Thủy phong phú đến thế nào. Máu hò khoan nhiều đến thế nào trong huyết quản của con dân Lệ Thủy.

Hò đưa linh được đưa vào trong “kịch bản” một đám hiếu với chức năng riêng của nó. Phường bát âm là để tấu nhạc cho cúng tế và xen giữa những lúc khách viếng. Hò đưa linh thì diễn lúc quãng nghỉ của lễ tế, lúc chèo thuyền, lúc chôn cất. Có nhiều chặng hò trong một cuộc hò đưa linh. Chặng đầu là từ sau khi phát tang cho đến trước lễ động quan. Chặng thứ hai là từ khi đưa linh cữu xuống thuyền, chèo đưa lên núi. Chặng thứ ba là khi đổ đất lấp quan tài, đắp mộ. 

Diễn xướng trong hò đưa linh có lớp lang, trình tự kết cấu chặt chẻ. Khởi đầu là hò ai điếu sau khi làm thủ tục khâm liệm, phát tang. Thông thường, những lúc này không khí buồn đau, thương tiếc đang chế ngự tang gia nên chỉ có một hò cái và một hò con diễn xướng. Thậm chí, chỉ có hò cái đảm nhận luôn hai chức năng hò và xố. Nội dung những câu hò lúc này thường là kể lễ về nỗi buồn, nỗi đau và lòng tiếc thương của gia quyến. Làn điệu hò lúc này thường là mái nện. Giai điệu của mái nện đều đều, hòa quyện với tiếng sanh, tiếng mõ u tịch, rất phù hợp với không khí u buồn. Thông thường, linh cửu để trong nhà 3 ngày, 7 ngày (nay tập quán này không còn). Trong thời gian này, xen giữa những lúc lễ cúng và độc diễn hò mái nện của nghệ nhân, người ta diễn hò chèo cạn bằng mái ba. Hò chèo cạn là diễn xướng do hò cái và đội âm công thực hiện. Âm công thì đứng làm hai hàng, chân trước, chân sau, tay làm động tác chèo thuyền, khi hò, di chuyển đội hình theo những cách thức định trước. 

Diễn xướng trong hò chặng hai là lúc chèo thuyền đưa linh cữu lên núi. Để chở quan tài, người ta kết hai chiếc thuyền lại với nhau, trên lát ván, kết mái, trang trí lá ngâu, lá dừa, đèn lồng. Thuyền kết được bố trí hai dãy chèo hai bên. Di quan vào ban đêm, hạ quan trước khi trời sáng, nhiều hôm trời tối như mực. Quãng đường thì xa, có nơi đến 15 - 20 km, phải chèo cả đêm. Những lúc đó diễn xướng hò khoan lại tiếp tục. Trong bối cảnh chèo thuyền, thông thường người ta hò mái ba. Hò mái ba chậm rãi , phù hợp với nhịp chèo thuyền. Kiểu xố của hò mái ba cách quãng đều đặn với câu xố “hò là hô là khoan” như cầm nhịp cho các tay chèo. Vậy nên, mặc dầu tối trời, các tay chèo vẫn thong thả đều nhịp với nhau, giúp con thuyền thẳng hướng.

Diễn xướng chặng ba của hò đưa linh là lúc bắt đầu lấp đất, nện chặt, đắp mồ. Lúc này đội âm công vừa đổ đất xuống huyệt cầm dùi như cái chày tay, di chuyển vòng quanh huyệt, vừa làm động tác nện đất. Tiếng chày rập ràng nện xuống theo nhịp điệu của hò khoan mái xắp, mái nện. Mái xắp, mái nện có tiết tấu nhanh đều. Với tiết tấu đó, nó chỉ cho phép người nện nâng dùi nện lên độ cao vừa phải, hạ xuống nhẹ nhàng, không làm kinh động đến quan, không làm đau lòng người thân. Hò cái lúc này chỉ đứng ngoài cầm chịch qua các câu hò.

Hò đưa linh là lối hò trong nghi lễ đám tang, vậy nên nội dung các câu hò thường đượm buồn. Khéo léo hơn là, trong mỗi chặng hò, các nghệ nhân có cách chọn lựa ngữ cảnh rất chu chỉnh. Trong những ngày linh cữu tại gia, bà con, xóm làng đến viếng, xen giữa những đoạn nhạc hiếu kéo bản lưu thủy hành vân là những đọan hò kể lễ về người chết. Ở những gia đình khá giả, gia chủ nhờ nghệ nhân soạn những bài văn ai thể lục bát, có nội dung nói về công sinh thành, cưu mang, dưỡng dục của người đã khuất để răn dạy con cháu. Đôi khi người ta lấy các tích chuyện trong những tác phẩm văn học, hoặc lấy những đoạn trong “văn tế thập loại chúng sinh”, trong “nhị thập tứ hiếu” để diễn xướng. Khi chèo thuyền đưa linh lên núi, ngoài những câu hò có nội dung chia ly, đau buồn thường người ta hò những câu có nội dung ly biệt xóm làng, bản quán. Khi nện đất lấp mồ, nội dung câu hò đã đến đoạn cách biệt âm dương, người đi kẻ ở. Người ta không ngớt lời thở than sao lại bỏ nơi êm ấm mà tìm về nơi hoang lạnh. Lời hò nặng chịch theo tiếng chày nện đất.

Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong hò đưa linh cũng rất khéo léo. Cái chết là sự mất mát. Vậy nên chúng ta bắt gặp trong các bài hò đưa linh rất nhiều những từ, ngữ nói về sự chia ly vô vọng, đau đớn, xót xa. Nó như là tiếng khóc than, nhưng là sự khóc than trong câu hò nên nó mang chất văn hơn. Ta bắt gặp ở đây rất nhiều những từ, cụm từ “khuất xa muôn trùng”, “nước non cách vời”, “buồn thiu”, “ưu phiền”, “lạnh lùng”, “cô đơn”, “ruột thắt héo hon”, “não nề tâm can”… Phần nhiều ngôn ngữ có tính hình tượng gợi khung cảnh buồn, dễ động đến long trắc ẩn của mọi người. Nhiều người đến dự đám không cầm được nước mắt khi nghe những câu hò héo hắt ruột gan như vậy.

Hò đưa linh là một lối hò rất độc đáo thể hiện tầm cao sinh hoạt văn hóa dân gian ở Lệ Thủy. Tính độc đáo ấy toát ra từ sự tinh tế trong vận dụng một loại hình sinh hoạt văn hóa có tính lễ hội vào trong đám tang. Không phải ở đâu và ai cũng làm được. 

c, Hò bài chòi

Bài chòi còn gọi là “bài tới”. Gọi là “Bài chòi” vì khi chơi người ta ngồi trên chòi cao, còn gọi là “tới” bởi vì, khi kết thúc ván người chơi hô “tới, tới”, nôm na là vậy. Bài chòi không chỉ có ở Lệ Thủy mà nó có mặt ở cả Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Tuy nhiên cách gọi tên, nội dung câu hò để chỉ tên quân bài, cách diễn trò ở mỗi vùng có khác nhau, gắn với đặc điểm sinh hoạt, phong tục từng nơi. Chẳng hạn, bài chòi ở Quảng Nam chỉ dùng 9 chòi và có 2 cách chơi. Một cách là “hô bài chòi” với việc xướng tên các quân bài, và một cách là hát bài chòi, hát bội mang tính sân khấu được phát triển từ các “chiếu chòi”. Bài chòi ở Huế gần với cách chơi ở Lệ Thủy nhưng nó mang tính cung đình hơn. Ngay trong cách gọi tên quân bài cũng có những khác biệt. Bộ bài của bài chòi Quảng Nam có con “Cột nọc, Cửu chùa, con Mắt, con Thất”, nhưng trong bộ bài của Lệ Thủy không có. Tuy cùng được lấy ra từ bộ bài Tam cúc 30 quân và chia làm 3 pho: Văn, Vạn, Sách nhưng cách gọi của bài chòi Huế thường ghép nhất, nhị, tam, tứ, ngũ, lục... với tên pho con bài. Còn cách gọi con bài ở Lệ Thủy mang tính dân giã, chủ yếu là gọi thẳng tên con bài ra như: con xe, con gối, con gà, con gióng, nọc đượn...

Bài chòi thường diễn ra vào những dịp lễ hội hoặc tết âm lịch nên từ cái cách trang trí chòi cũng rất tươi vui, cờ hoa, lồng đèn, kết lá làm cửa, treo rèm vẽ tranh xuân hạ thu đông hoặc mô tả các điển tích. Có cả phường nhạc kèn, trống, sáo, nhị réo rắt. Do vào dịp lễ hội, du xuân nên nhiều khi cả nhà cùng mua một chòi ngồi chơi. Người lớn, trẻ con người cầm bài, người gõ mõ, đốt pháo, phất cờ rất nhộn nhịp. Nếu may mắn được nhiều ván thưởng cờ xéo, cờ vuông thì vô cùng hoan hỉ vì khởi đầu nhiều tài lộc.

Hội bài chòi có sân chơi với những quy ước cụ thể. Về cách bài trí, trong sân chơi (thường là đình làng hoặc bãi đất trống) người ta dựng 11 cái chòi chia làm hai dãy đối diện nhau, mỗi bên 5 chòi, chính giữa hai dãy chòi phía khán đài là một chòi cái cho người chủ trò. Các chòi được dựng bằng gỗ hoặc bằng tre, cao chừng mét rưỡi, có thang để người chơi lên xuống. Chòi được lợp bằng mái lá, hoặc cỏ gianh, có rèm che tứ bề, được trang trí cờ, hoa, câu đối sặc sỡ. Trước mỗi chòi có treo tên chòi theo quy ước thập can (giáp, ất, bính, đinh, mậu, kĩ, canh, tân, nhâm, quý). Sở dĩ người ta không chọn hàng chi để ghi tên chòi bởi chỉ có 10 chòi. Hơn nữa, đầu năm chơi xuân mà ngồi phải cái chòi không phải tuổi của mình (trong hàng chi) thì cũng không hào hứng.

Về cách chơi, trước tiên người chủ trò sai người giúp việc (còn gọi là người chạy cờ, có nơi không có người chủ trò mà chỉ có “anh hiệu”) chia 30 quân bài cho 10 chòi, mỗi chòi 3 con (quân bài được dán vào một cái thẻ tre). Sau đó, người chủ trò xướng một câu hò vào cuộc rồi rút một quân bài của bộ thứ hai được đặt trong một cái ống tre cao quá đầu người trước chòi cái. Xem quân bài và hò lên bài hò có nội dung mô tả tên con bài. Nếu chòi nào có con bài đã được chia trùng tên với con bài của chủ trò thì gõ lên ba tiếng mõ. Người chạy cờ sẽ mang đến cho chòi ấy một lá cờ xéo cầm tay. Chòi nào được 3 cờ xéo thì đánh một hồi mõ dài, rồi hô “tới”, vậy là xong một ván. Nhạc tấu lên, người ta hò chúc mừng. Người chạy cờ đội mâm, trên có phần thưởng, đến dâng lên cho chòi được giải. Một hội chơi có 8 ván. Ai tới một ván thì được đổi 3 cờ xéo lấy một cờ vuông. Nếu trúng ba cờ vuông liên tục thì được một phần thưởng đặc biệt. Lúc ấy người ta reo hò, đốt pháo, khua chiêng, gióng trống, nổi kèn in ỏi.

Bài chòi ở Lệ Thủy là một trò chơi mang tính văn hóa sâu sắc. Bởi khác với bài chòi ở các vùng khác “anh hiệu” hô tên quân bài bằng một câu văn vần, hoặc hát lên một trong bốn làn điệu: xuân nữ, xàng xê, cổ bản, hồ quảng, thì ở Lệ Thủy người ta dùng năm mái hò khoan. Chính yếu tố này đã biến bài chòi thành trò vừa chơi vừa diễn, một lối diễn xướng mang tính quần chúng rất hay và thu hút. Khi xướng tên quân bài, người cầm cái hò lên những câu lục bát, hoặc song thất lục bát với giai điệu của một mái hò khoan. Người chơi ở các chòi xố theo, cả đám đông xem trò cũng xố rất rộn ràng. Có nơi tổ chức hẳn một dàn nhạc với trống, phách, nhị, sáo phụ họa cho các nghệ nhân hò khoan. Người ta đến với trò chơi là để thi thố giọng hò, thưởng thức giọng hò của các “cao thủ” nghệ nhân, để đế xố, phụ họa cho xôm trò. Rồi thì xen vào giữa các ván là các câu hò khoan do các nghệ nhân, các tay hò tung hứng, đối đáp, người xem thì xố, đế, trống điểm tán thưởng. Đôi khi hứng khởi người ta tung tiền ra thưởng. Hội bài chòi trở thành hội diễn, hội xố náo nhiệt.

Chơi bài chòi là trò chơi có thưởng, nhưng cách thưởng cũng rất văn hóa. Phần thưởng có thể là tiền, mà tiền ấy được những người chơi bỏ ra mua chòi thử vận may hoặc do những người cổ vũ thưởng vì hò hay… Ngoài tiền thưởng người ta còn thưởng câu đối, hoành phi hoặc chữ chúc phúc, lộc, thọ của các thầy đồ. Cái cách thưởng cũng rất đặc biệt. Tiền thì cho vào phong bao giấy hồng, cho lên một cái mâm đồng, đậy khăn điều, đội lên đầu. Ban nhạc chơi một khúc chúc mừng kèm theo một vài câu hát, lời hò chúc tụng vui vẻ. Đôi khi người thắng cuộc còn cao hứng đốt một bánh pháo ran ran.

Bài chòi rất thu hút dân quê. Chẳng cần chữ nghĩa, dân quê có nhiều cách để truyền cảm hứng cho người chơi, tìm cách duy trì nó qua truyền khẩu. Vậy nên, cách gọi tên quân bài cũng rất độc đáo, chân quê. 30 quân bài có những tên gọi nôm na: Nhứt trò; Thái tử; Trạng hai; Trạng ba, Ông Âm; Con Xe; Con Gối; Bát bồng; Con Gà; Sáu dây; Tám dây; Sáu tiền; Tám tiền: Nhứt Nọc; Lá liễu; Bạch tuyết; Cửu sại; Con Đấu; Con quăng; Nhọn mõ; Lục chuôm; Thẳng cẳng; Đỏ mỏ; Con giống; Con sưa; Con Dày; Con nghèo; Con Rún; Con voi; Ngủ trưa. Những ông ầm, con quăng, đỏ mỏ, con sưa, thẳng cẳng, con rún, ngủ trưa… vừa nôm na vừa địa phương mà đôi khi không phải là người Lệ Thủy thì không hiểu nổi. 

Ở Lệ Thủy có một số tụ điểm hò bài chòi đã trở thành địa danh như Lộc An, Cổ Liễu, Đại Phong, Quảng Cư...Mỗi tụ điểm ấy xuất hiện một số nghệ nhân nức tiếng hò hay, đối đáp giỏi. Ngày xuân, lễ hội có thêm một sân chơi bài chòi thì đời sống văn hóa nông thôn càng thêm tươi vui. 

2.2 Nhạc cụ cho hò khoan 

Chỉ có trong các buổi diễn, thi thì mới dùng đến Nhị, Hồ, Sáo, Trống, Sanh… (bộ dây và bộ gõ của dân ca) còn thông thường, nhạc cụ cho hò khoan chỉ là những thứ đơn giản, gắn với công cụ lao động như chày giã gạo, mõ tre, sanh, gậy, mâm đồng, không có gì cả thì vỗ tay bắt nhịp… những thứ gì có thể tạo ra âm thanh cho “rập ràng” là được. Có một số thứ “nhạc cụ” rất độc đáo thường được người hò dùng đến một cách ngẫu hứng. Ví như, cặp chén uống trà, thứ vật dụng có sẵn trong các buổi giao lưu. Âm thanh lanh canh, lách cách của nó thật riêng biệt. Khi rung lên nó vang vang xao động khán trường, kích thích sự hứng khởi. Ví như, cái chày giã gạo, bạn hò dùng nó khắc nhịp, mỗi khi nhấc chày lên là gõ nhẹ xuống tang cối. Giã chày đôi thì nhịp gõ khoan thai người hò dùng làn điệu mái ruổi, mái ba. Khi chày tư, nhịp chày dồn dập, tiết tấu nhanh, người ta dùng mái xấp, mái chè. Những đêm trăng sáng mở hội hò khoan, đứng bên này sông Kiến Giang vần nghe tiếng chày rập ràng vọng lại từ bên kia sông. Nó cuốn hút đến nỗi, không có đò ngang thì cởi áo bơi qua sông để dự cuộc hò. Người Lệ Thủy trước đây mỗi khi làm nền nhà, làm sân phơi bằng đất thường trộn thứ đất dẻo rải lên rồi dùng một đoạn gỗ được đẽo thành hình như con vịt, gọi là cái “bê” để vỗ mặt đất cho chặt, cho phẳng. Mỗi lần như vậy họ cũng lấy nhịp “bê” đất rập ràng cầm nhịp cho hò khoan. Có ai ngờ rằng khi chèo thuyền mà gặp cuộc hò khoan, người chèo thuyền lấy bàn chân dẫm mạnh xuống thuyền tạo thứ âm thanh như tiếng trống đùng đục, dùng mái chèo vỗ xuống nước mỗi khi bập chèo xuống bùm, bùm để làm nhịp đệm. Đến cả khi chôn cất người chết, đám âm công trong bộ đồng phục xanh, tay cầm dùi đầm đất, cất bước đi vòng quanh mộ, nhấc lên, nện xuống nhịp chày rập ràng tạo nhịp cho hò khoan. Tất cả, tất cả những gì là công cụ lao động đều trở thành “nhạc cụ” cho hò khoan. Cái độc đáo của hò khoan là chỗ đó. Nó là thứ sinh hoạt văn hóa của người lao động, gắn với lao động.

Chủ bút: Hỗn Tạp Blog

Hỗn tạp blog, blog lưu giữ tất cả các bài viết hay trên mạng internet, từ tin tức công nghệ, cho đến sức khỏe, làm đẹp. Từ thủ thuật blogger cho đến Facebook

Có thể bạn sẽ thích

Có 0 nhận xét Đăng nhận xét