Ngọc Tuân
Trong kho tàng hò khoan Lệ Thuỷ có một lối hò mà dân gian gọi là “hò giã gạo”. Gọi là “hò giã gạo” vì nó diễn ra khi giã gạo và đã được mặc định trong cách hiểu dân gian. Thực ra giã gạo là một hình thức diễn xướng của hò khoan, diễn ra rất phổ biến ở Lệ Thuỷ. Đặc trưng của hò khoan Lệ Thuỷ là hò lao động. Xay lúa, giã gạo là một hoạt động lao động nặng nhọc có hò khoan giải khuây cho bớt nỗi nhọc nhằn. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của hò lao động có một bộ phận tách ra thành lối hò sinh hoạt để thỏa mãn nhu cầu giao tiếp. Và nói đến hò giã gạo là người ta ngầm hiểu đó là lối hò mà thông qua nó để người ta giao duyên, thi thố tài năng ứng đáp, hò hát nhiều hơn là mục đích giã gạo.
Khởi thủy, hò giã gạo bắt nguồn từ trong môi trường xay lúa, giã gạo thường nhật của người dân. Khi kéo giàng xay, vung chày người ta hò lên đôi ba câu cho khuây khỏa, cho quên nỗi nhọc nhằn. Lệ Thuỷ là vựa lúa cung cấp gạo cho trong và ngoài tỉnh, vào tận kinh đô Huế. Ở Lệ Thuỷ xưa có những địa chủ chuyên thu mua thóc, chứa vào kho rồi thuê người xay, giã, dùng ghe chở vào Huế bán. Một trong những địa chủ có tiêng đó là Bát Viếng ở Chợ Đợi, Đại Phong. Nhà Bát Viếng có hàng chục cối xay,cối giã gạo hoạt động suốt ngày đêm. Dân nghèo đến xay giã thuê, lấy công bằng tấm cám. “Đùng đình xay lúa đồng nai/ Cơm gạo về ngài, tấm cám về tôi”. Khi lao động tập thể, người ta dùng hò khoan để giải khuây, làm quên đi sự mệt nhọc. Sau này, hò giã gạo trở thành một hình thức sinh hoạt mang tính nghệ thuật, giải trí. Nhất là những lúc nông nhàn, nhu cầu giao tiếp mở rộng.
Hò giã gạo có mặt ở nhiều nơi, từ vùng người Thái Sơn La đến người Mường Thanh Hoá, đến người kinh Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, vào tận Khánh Hoà. Sở dĩ hò giã gạo hiện diện trên phạm vi rộng như vậy bỡi vì giã gạo là một hình thức lao động phổ biến của cư dân trồng lúa.
Người Lệ Thủy xưa giã gạo bằng chày tay, cối gỗ, loại cối lớn có thể chứa cả thúng gạo. Mỗi cối thường có hai hoặc bốn tay chày. Khi giã gạo hò khoan, người ta sắp xếp một nửa số tay chày là nam, một nửa là nữ. Cuộc hò bắt đầu từ khi cho gạo vào cối, cầm chày và kết thúc khi gạo đã trắng. Và đó là một “cối hò”, kết thúc một cối hò thì thay hò cái. Vào những thời gian rỗi vụ, nhất là những đêm trăng sáng, khắp nơi trong các làng xóm hội giã gạo rộn ràng. Nghe tiếng chày gõ vào tang cối tong tong là không cầm lòng được, trai thanh gái lịch, bạn hò vắt áo lên vai tìm đến. Nhiều khi đi bộ đến chục cây số, bơi qua sông nhưng được gặp bạn hò tri kỷ thì chẳng có gì ngăn cản được họ. Thực ra, giã gạo chỉ là cái cớ, còn mục đích là để người ta giao duyên, thi tài cao thấp trong đối đáp, ứng biến của câu hò bắt miệng.
Hò giã gạo là lối hò dài hơi nhất trong hò khoan và có kết cấu, lớp lang khá chặt chẻ. Nói là dài hơi vì nhiều khi cuộc hò diễn ra thâu đêm. Đôi khi chưa mãn nguyện, hết gạo, bạn hò còn đổ trấu vào giã. Một cuộc hò giã gạo thường diễn ra theo trình tự từ hò mời đến hò gần, hò giữa rồi đến hò xa cách , tạ từ. Hò mời là chặng đầu mà các hò cái làm quen với nhau qua những câu mời chào lịch lãm:
“Bước tới nơi đây xin chào chung chào chạ, /Có người khách lạ nên phải chào riêng”
Hay:
“Em không chào thì ra câu khinh lệ,/ Em mở lời chào thì tục lệ phân minh./ Anh ở xa chưa rõ sự tình, / Anh có đôi rồi chẳng biết, em một mình nỏ hay”
Dẫu cho các tay hò đã quá quen nhau, đôi khi đã là một đôi “quen hơi, bén tiếng” với nhau rồi nhưng lề lối hò khoan vẫn phải có màn chào hỏi. Có khi chỉ dăm ba câu lấy lệ, nhưng cũng có khi đưa đẩy đến cả chục câu. Có khi câu chào suồng sả: “Ngọn đèn lu lít (lờ mờ) bất nhơn (nhân),/ Anh không khêu cho tỏ, để em thấy nghĩa nhơn mà chào” nhưng khi đã cảm nhau rồi thì cũng lựa chọn bóng bẩy lắm.
Qua chặng hò mời là “hò gần”. Hò gần là chặng hò mà bạn hò xích lại gần hơn, lân la hỏi thăm quê quán, các bậc sinh thành có mạnh khỏe hay không, tình duyên đã có nơi, có chốn nào chưa? “Em có chồng chưa thì cho anh biết, / Anh có vợ rồi cũng nói thiệt cho em hay. /Để mai đây lỡ có cầm tay, / Người thương em đứng đó buông rày khó buông”. Hò gần đôi khi bị xen lẫn vào với hò mời bởi, về nội dung, nó cũng mới dừng lại ở thể thức làm quen ban đầu. Ngay trong chào có cả thăm hỏi và ngược lại. Bởi vậy, ở trong dân gian có một số ý kiến cho rằng, hò mời với hò gần là một.
Hò giữa là chặng chính của hò giã gạo. Đây là thời điểm tung hứng, phô diễn tài nghệ của các tay hò. Tùy theo người đề xướng, chặng hò này thường có hai kịch bản. Một là, cuộc hò sẽ đi theo hướng hò ân tình, đưa đẩy những câu hò có nội dung nói về tình yêu đôi lứa, nhân tình thế thái, đạo nghĩa tào khang. Hai là, cuộc hò sẽ đi theo hướng khoe tài ứng biến, so đọ thấp cao qua những câu “hò đâm bắt”. Trong chặng này, nội dung những câu hò đối đáp sẽ đi theo một chủ đề ước lệ sẵn. Nếu theo chủ đề “ân tình” thì có hò nhân nghĩa, hò giao duyên, nhân nghĩa kết vấn, xa cách kết vấn... Nếu theo chủ đề “đâm bắt” thì có hò đố, hò xấc leo, hò ghễnh, hò bồn ba... Nếu theo chủ đề “điễn tích” thì có hò Kiều, hò Lục Vân Tiên, hò Tam Quốc, hò Lưu Bình – Dương Lễ, Thoại Khanh – Châu Tuấn... Từ những cuộc hò ấy mà nên duyên nhiều đôi vợ chồng và con đường hạnh phúc còn lại của họ cứ sống mãi trong âm hưởng của hò khoan cho đến cuối đời. Người đã có nơi, có chốn rồi thì trở thành “bạn hò”, cặp hò gắn kết keo sơn như bạn Quan họ vậy. Người thì được dân chúng phong cho cái danh hiệu “thợ hò”.
Hò xa cách, tạ từ là chặng cuối cuả hò giã gạo. Khi đã thỏa mãn với cuộc vui, đã cạn vốn liếng ý tứ, hoặc đã hết đêm, trời sáng người ta mới đành cất câu tạ từ: “Ra đi một bước đau lòng một bước/ Ra đi hai bước đành nghỉ trước suy sau/ Mấy lâu ni ý hợp tâm đầu/ Răng chừ én nam nhạn bắc để rầu cho ai!”. Chia tay trong hò khoan chỉ là tạm biệt, đâu phải là từ biệt không hẹn ngày gặp lại. Ấy vậy mà câu hò cũng lưu luyến, dùng dằng lắm. Nhiều nghệ nhân hò khoan nay đã sức tàn, lực kiệt nhưng mỗi khi có dịp nhắc lại vẫn hào hứng như âm thanh mời gọi của hò giã gạo còn lưu luyến đâu đó.
Ở Lệ Thủy bây giờ, hò giã gạo đã trở thành hò nghệ thuật. Bởi nó đã dần thoát khỏi thể loại hò lao động để đi vào trình diễn trong môi trường nghệ thuật, nhằm thỏa mãn nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của quần chúng. Xa xưa, hò giã gạo diễn ra ở các điểm hẹn sân đình, ở những tụ điểm của làng. Và thường được tổ chức vào ban đêm, dưới ánh trăng, ánh đuốc. Bây giờ, nó được sân khấu hóa, trình diễn, thi thố với trang phục, âm nhạc, ánh sáng phụ họa hiện đại. Thực ra, đây là bước chuyển theo quy luật lao động, sinh hoạt của nhân dân. Ngày nay không còn xay giã thủ công như trước nữa mà là máy xát làm thay. Môi trường diễn xướng dân gian đã mất song nhu cầu sinh hoạt văn hóa vẫn còn đó, thậm chí bức thiết hơn, hò khoan, trong đó có cả hò giã gạo được sân khấu hóa để trở thành hình thức sinh hoạt mới.
Tuy nhiên, để có môi trường diễn xướng nhằm duy trì, phát triển hò khoan thì phải có kế hoạch tổ chức thường xuyên những hội thi. Điều này rất cần đến vai trò của cơ quan văn hóa trong việc đứng ra khởi xướng, hỗ trợ cho nhân dân sinh hoạt. Cùng với đó, cần có những hoạt động để truyền thụ tình yêu, kỹ năng hò khoan cho lớp trẻ kế tiếp thông qua hoạt động truyền nghề của nghệ nhân dân gian, của chương trình giáo dục âm nhạc dân gian trong trường học.
Có 0 nhận xét Đăng nhận xét