Trong kho tàng
phong phú của hò khoan Lệ Thủy có một lối hò rất đặc biệt, đó là hò đưa linh.
Cho đến nay, lối hò này đã mai một và gần như thất truyền. Những nghệ nhân biết
hò thể loại này chỉ còn vài người và đã ngoài tám mươi.
Hò khoan có mặt
rất nhiều ở cá tỉnh miền trung. Riêng hò đưa linh hầu như chỉ có ở Bình Trị
Thiên, mà cội nguồn xuất xứ có lẽ ở Lệ Thủy. Điều xét đoán này dựa trên mấy yếu
tố. Một là, nó xuất hiện rất đậm đặc ở các xã ven sông Kiến Giang. Thứ hai, dựa
vào tập quán lâu đời về tục an táng ở Lệ Thủy. Vùng chiêm trũng Lệ Thủy thường
bị lũ lụt liên miên hàng năm, mỗi đợt kéo dài nhiều ngày. Bới vậy, cư dân ở đây
thường đưa linh cữu người thân lên núi để an táng. Khi đi, người ta kết thuyền,
đặt quan tài lên, chèo ngược dòng Kiến Giang. Chèo suốt đêm đến gần sáng, để
kịp hạ huyệt khi mặt trời chưa ló rạng. Việc của cõi âm thì phải vào ban đêm
nên tùy theo đoạn đường ngắn dài mà chọn giờ khởi sự. Suốt chặng đường dài đó
chỉ có tiếng phèng la, trống điểm và tiếng hò khoan.
Hò đưa linh là
lối hò phục vụ đám tang, nó diễn ra suốt thời gian tang gia từ khi người chết
đã được khâm liệm, phát tang, cho đến khi chôn cất xong. Thông thường, hò đưa
linh chỉ diễn ra trong những đám tang người già đã qua tuổi lão (xưa các cụ đến
tuổi 50 là cáo lão). Hò khoan là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian để
tạo niềm vui trong lao động. Nhưng hò đưa linh, một lối hò khoan lại được hò
trong đám tang. Hò vừa để chia buồn nhưng hò cũng là để thưởng thức văn hóa.
Người ta đến đó, ngoài việc chia buồn, còn để thưởng thức giọng hò hay, ngôn
hay ý đẹp. Bởi theo các cụ, người cao
tuổi mất đi được coi như đã hưởng phúc trời, lộc đất nên không có gì phải đau
buồn lắm. Xưa, còn có lễ mừng thọ, mừng thượng thọ, đại thọ. Vào ngày đó, con
cháu còn làm lễ tế sống cho cha mẹ. Ở những nhà khá giã, người ta còn thuê thầy
làm một bài văn ai, kể lại cuộc đời, công ơn của người đã mất đối với con cháu,
làng xóm dưới dạng lục bát để hò. Ở một số vùng văn hóa khác, trong đám tang
người ta cũng có hình thức “khóc mướn”.
Người khóc mướn là một thành viên trong phường bát âm, khi nhận được thông tin
về quan hệ thứ bậc của người nhờ khóc với người chết (chú, bác, cô, dì…) là
người ta sẽ khóc một đoạn kể kể với linh hồn người chết thay cho người đến
viếng. Người khóc có thể tự sáng tạo tức thì lời lẽ mà không bị ràng buộc bởi
cấu tứ, giai điệu của âm nhạc. Hò đưa linh không cho phép như thế, nó phải nằm
trong khuôn phép của làn điệu, của hình thức diễn xướng. Câu hò phải là lục
bát, song thất lục bát hoặc biến thể của nó.
Hò đưa linh
thường là do các nghệ nhân làm “hò cái”, đội “âm công” là “hò con”, đế xố, diễn
xướng. Vai trò các nghệ nhân dân gian trong hò đưa linh là rất quan trọng. Bỡi,
trong một không gian lễ nghi đượm chất buồn đau ấy thì người hò cái phải “thuộc
bài”. Không thể lấy những bài hò có nội dung vui vẻ, lả lướt như khi hò giã gạo
được. Không những thế, người hò cái còn phải biết lựa chọn các mái hò sao cho
âm hưởng của nó phù hợp với khung cảnh. Người hò con là thành viên trong đội âm
công, được tập hợp từ các con, cháu, người thân của tang gia. Ngoài chức năng
xố con, họ còn nhiệm vụ diễn xướng chèo cạn lúc ở nhà, lúc chèo thuyền đưa linh
trên sông, lúc nện đất lấp mồ. Mới thấy hò khoan ở Lệ Thủy phong phú đến thế
nào. Máu hò khoan nhiều đến thế nào trong huyết quản của con dân Lệ Thủy.
Hò đưa linh được
đưa vào trong “kịch bản” một đám hiếu với chức năng riêng của nó. Phường bát âm
là để tấu nhạc cho cúng tế và xen giữa những lúc khách viếng. Hò đưa linh thì
diễn lúc quãng nghỉ của lễ tế, lúc chèo thuyền, lúc chôn cất. Có nhiều chặng hò
trong một cuộc hò đưa linh. Chặng đầu là từ sau khi phát tang cho đến trước lễ
động quan. Chặng thứ hai là từ khi đưa linh cữu xuống thuyền, chèo đưa lên núi.
Chặng thứ ba là khi đổ đất lấp quan tài, đắp mộ.
Diễn xướng trong
hò đưa linh có lớp lang, trình tự kết cấu rất chặt chẻ. Khởi đầu là hò ai điếu
sau khi làm thủ tục khâm liệm, phát tang. Thông thường, những lúc này không khí
buồn đau, thương tiếc đang chế ngự tang gia nên chỉ có một hò cái và một hò con
diễn xướng. Thậm chí, chỉ có hò cái đảm nhận luôn hai chức năng hò và xố. Nội
dung những câu hò lúc này thường là kể lễ về nỗi buồn, nỗi đau và lòng tiếc
thương của gia quyến. Làn điệu hò lúc này thường là mái nện. Giai điệu của mái
nện đều đều, hòa quyện với tiếng sanh, tiếng mõ u tịch, rất phù hợp với không
khí u buồn. Thông thường, linh cửu để trong nhà 3 ngày, 7 ngày (nay tập quán
này không còn). Trong thời gian này, xen giữa những lúc lễ cúng và độc diễn hò
mái nện của nghệ nhân, người ta diễn hò chèo cạn bằng mái ba. Hò chèo cạn là
diễn xướng do hò cái và đội âm công thực hiện. Âm công thì đứng làm hai hàng,
chân trước, chân sau, tay làm động tác chèo thuyền, khi hò, di chuyển đội hình
theo những cách thức định trước.
Diễn xướng trong
hò chặng hai là lúc chèo thuyền đưa linh cữu lên núi. Để chở quan tài, người ta
kết hai chiếc thuyền lại với nhau, trên lát ván, kết mái, trang trí lá ngâu, lá
dừa, đèn lồng. Thuyền kết được bố trí hai dãy chèo hai bên. Di quan vào ban
đêm, hạ quan trước khi trời sáng, nhiều hôm trời tối như mực. Quãng đường thì
xa, có nơi đến 15 - 20 km, phải chèo cả đêm. Những lúc đó diễn xướng hò khoan
lại tiếp tục. Trong bối cảnh chèo thuyền, thông thường người ta hò mái ba. Hò
mái ba chậm rãi , phù hợp với nhịp chèo thuyền. Kiểu xố của hò mái ba cách
quãng đều đặn với câu xố “hò là hô là khoan” như cầm nhịp cho các tay chèo. Vậy
nên, mặc dầu tối trời, các tay chèo vẫn thong thả đều nhịp với nhau, giúp con
thuyền thẳng hướng.
Diễn xướng chặng
ba của hò đưa linh là lúc bắt đầu lấp đất, nện chặt, đắp mồ. Lúc này đội âm
công vừa đổ đất xuống huyệt cầm dùi như cái chày tay, di chuyển vòng quanh
huyệt, vừa làm động tác nện đất. Tiếng chày rập ràng nện xuống theo nhịp điệu
của hò khoan mái xắp, mái nện. Mái xắp, mái nện có tiết tấu nhanh đều. Với tiết
tấu đó, nó chỉ cho phép người nện nâng dùi nện lên độ cao vừa phải, hạ xuống
nhẹ nhàng, không làm kinh động đến quan, không làm đau lòng người thân. Hò cái
lúc này chỉ đứng ngoài cầm chịch qua các câu hò.
Kết thúc việc chôn cất là lúc
trời sáng, gia quyến dùng bữa sáng bằng đồ nguội đã qua cúng lễ, rồi chèo
thuyền về.
Hò đưa linh là
lối hò trong nghi lễ đám tang, vậy nên nội dung các câu hò thường đượm buồn.
Khéo léo hơn là, trong mỗi chặng hò, các nghệ nhân có cách chọn lựa ngữ cảnh rất
chu chỉnh. Trong những ngày linh cữu tại gia, bà con, xóm làng đến viếng, xen
giữa những đoạn nhạc hiếu kéo bản lưu thủy hành vân là những đoạn hò kể lễ như:
“Cuộc hồng trần xoay vần quá ngắn,/ Kiếp phù sinh tụ tán mấy trăm hồi./
Người đời có biết chăng ôi,/ Thêm người tuy có, có rồi lại không”
“Khi nào ra trướng vào màn,/ Bây giờ nhà cửa, xóm làng cách xa./ Khi
nào mẹ mẹ cha cha,/ Bây giờ bóng núi, khuất xa muôn trùng”
“Khi nào vợ vợ chồng chồng,/ Bây giờ trăng khuyết, còn mong chi tròn./ Khi
nào cháu cháu con con,/ Bây giờ hai ngã, nước non cách vời.”
Ở những gia đình
khá giả, gia chủ nhờ nghệ nhân soạn những bài văn ai thể lục bát, có nội dung
nói về công sinh thành, cưu mang, dưỡng dục của người đã khuất để răn dạy con
cháu. Đôi khi người ta lấy các tích chuyện trong những tác phẩm văn học, hoặc
lấy những đoạn trong “văn tế thập loại chúng sinh”, trong “nhị thập tứ hiếu” để
diễn xướng.
Khi chèo thuyền
đưa linh lên núi, ngoài những câu hò có nội dung chia ly, đau buồn thường người
ta hò những câu có nội dung ly biệt xóm làng, bản quán.
“Ra đi không hẹn lúc nào,/ Hồi hương cảnh cũ, nghẹn ngào đau thương”
“Ra đi bỏ cửa bỏ nhà,/ Luống rau hàng chuối ớt cà ai chăm./ Ra đi mấy
tháng mấy năm,/ Sao đành đi mất, biệt tăm không về”
Khi nện đất lấp
mồ, nội dung câu hò đã đến đoạn cách biệt âm dương, người đi kẻ ở. Người ta
không ngớt lời thở than sao lại bỏ nơi êm ấm mà tìm về nơi hoang lạnh. Lời hò
nặng chịch theo tiếng chày nện đất.
“Ba tấc đất ngàn năm ly biệt,/ Cám cảnh này thảm thiết đau thương./ Bỡi
vì ai cách biệt âm dương,/ Để cho con xa mẹ, nhớ thương quá chừng.”
Nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ trong hò đưa linh cũng rất khéo léo. Cái chết là sự mất mát. Vậy
nên chúng ta bắt gặp trong các bài hò đưa linh rất nhiều những từ, ngữ nói về
sự chia ly vô vọng, đau đớn, xót xa. Nó như là tiếng khóc than, nhưng là sự
khóc than trong câu hò nên nó mang chất văn hơn. Ta bắt gặp ở đây rất nhiều
những từ, cụm từ “khuất xa muôn trùng”,
“nước non cách vời”, “buồn thiu”, “ưu phiền”, “lạnh lùng”, “cô đơn”, “ruột thắt
héo hon”, “não nề tâm can”… Phần nhiều ngôn ngữ có tính hình tượng gợi
khung cảnh buồn, dễ động đến long trắc ẩn của mọi người. Nhiều người đến dự đám
không cầm được nước mắt khi nghe những câu hò héo hắt ruột gan như vậy.
Hò đưa linh là
một lối hò rất độc đáo thể hiện tầm cao sinh hoạt văn hóa dân gian ở Lệ Thủy.
Tính độc đáo ấy toát ra từ sự tinh tế trong vận dụng một loại hình sinh hoạt
văn hóa có tính lễ hội vào trong đám tang. Không phải ở đâu và ai cũng làm được.
Rất mong những cơ quan có trách nhiệm tìm cách bảo tồn lấy vốn quý này của quê
hương.
Có 0 nhận xét Đăng nhận xét