CÓ PHẢI THÀNH HOÀNG LÀNG ĐẠI PHONG LÀ MỘT ÔNG ĐẠI TƯỚNG

Ngọc Tuân


alt
                                  (Tượng Đại tướng Nguyễn Chí Thanh ở gian thờ)

Đó là trường hợp hy hữu mà dân làng Đại Phong tưởng nhớ đến Đại tướng Nguyễn Chí Thanh.
1. Ngôi đình chưa có thành hoàng.
Ở Đại Phong xưa có đình làng rất lớn, cột gỗ lim 2 người ôm mới xuể. Song, chiến tranh tàn phá, nay chẳng còn. Ngôi đình ấy gắn với bao truyền thuyết về địa linh, nhân kiệt. Khi dựng đình, hội chủ dựng đình là ông Nguyễn Cao Quỳ đã chết đúng ngày cất nóc. Theo lời thầy địa lý Lê Chước, người chọn đất, nếu đình dựng ở đấy sẽ kết phát vương hầu. Có điều phải đặt nóc vào giờ ấy, ngày ấy…và hội chủ sẽ chết! Mặc dầu biết trước, nhưng ông Quỳ vẫn dấn thân cho làng. Đúng giờ Mão, ngày 16 tháng Giêng, năm Bính Thân (1896), sau khi tế lễ, đặt nóc xong, ông Quỳ về nhà, ăn sáng, lên giường rồi ngủ một giấc thiên thu. Chưa hết, ngày khánh thành, 12 dòng họ Đại Phong cùng quan khách về dự đông như trẩy hội, trời thì mưa xuân, lán rạp chưa dựng kịp, các bô lão đứng ngồi không yên. Riêng thầy Chước thì cứ ung dung, tự tại. Rồi thầy nói, nỏ lo, nỏ lo, mai khắc có rạp. Chẳng ai tin, nhưng không còn cách nào khác, một đêm làm sao xoay xở. Ấy vậy mà ngày hôm sau, khi dân làng kéo ra đình thì dãy ngang, dãy dọc, rạp dựng đâu vào đấy! Duy chỉ có cái chợ của làng Tuy Lộc mé bên cửa đình thì không còn. Hóa ra thầy đã làm phép để bốc cả cái chợ vào làm rạp. Thấy mất chợ, dân làng Tuy Lộc họp nhau lại để làn đơn thưa kiện lên quan. Ấy vậy nhưng, việc xong, hôm sau mái chợ đã lại về chỗ cũ. Vì việc này, thầy Chước đã phải hứa chọn cho làng Tuy Lộc một chỗ đất tốt dựng đình, chuyện mới yên. Sau này, đình làng Tuy Lộc cũng dựng ngay cạnh đó. Cả hai mái đình rêu lên trắng xóa. Dấu hiệu của sự linh ứng.
Thời chiến tranh chống Pháp, giặc Pháp xây ngay trước cửa đình một cái lô cốt to, có tháp canh xây gạch cao ngất. Để kiểm soát, người Pháp bắt dân chặt hết tre và cây cối cổ thụ. Làng trống trơn từ đầu đến cuối. Tháp canh đồn Tuy Lộc đêm đêm chĩa lên trời như động ma. Rồi chiến tranh chống Mỹ, suốt ngày máy bay quần lượn, gầm rú trên không. Hể có cái nhà nào to, ngờ đó là nhà kho chứa vũ khí, quân dụng. Cứ dội bom. Đình làng Đại Phong, nhà thờ Tây Hạ, Mỹ Phước bị xóa sổ. Ông họ tôi, một người thầy đáng kính của huyện, được thừa hưởng căn nhà to của cụ cố để lại, chưa kịp dỡ, bị bom dội, cả nhà chết thảm. Còn ba chị em, không cha, không mẹ, sống nhờ vào hơi ấm của làng. Những năm sau này, chiến tranh đã đi qua, nhưng đất đình xưa đã bị mất, gỗ lim làm đình đâu còn, dân làng Đại Phong đã quyết định không xây lại đình nữa mà xây nhà văn hóa làng 2 tầng to đẹp, khang trang hơn đình làng xưa. Trên tầng 2 của nhà văn hóa làng ấy, có một gian thờ Đại Tướng Nguyễn Chí Thanh.
2.Cơ duyên xưa và nay.
Vốn làng Đại Phong có lịch sử khá lâu đời. Bằng chứng là, ở làng này có 2 dòng họ từ phía bắc di cư vào đây khai khẩn đất đai từ rất sớm. Đó là họ Đặng và họ Phạm. Gia phả của hai dòng họ này còn lưu giữ được những ghi chép về tổ tiên mình, tính đến nay đã 500 năm. Đất này là đất mới khai phá từ sau thời Đại Việt mở cõi vào phía Nam, nên với chính sử là được ghi chép đầy đủ. Ấy vậy nhưng vẫn còn một chỗ khuyết trong lịch sử làng là chưa có Thành hoàng làng. Đến thế kỷ XIX, vào năm 1896, đình làng được xây dựng. Lúc đó, làng vẫn chưa xác định được ông khai khẩn. Vì vậy, văn tế đình chỉ lấy việc xếp thứ tự trước, sau của sự xuất hiện của các dòng họ ở đất này, “Đặng, Phạm, Ngô Hồ, Nguyễn, Đoàn, Trần, Hoàng, Võ Đỗ, Phan, Lê”. Dòng họ cuối cùng là họ Lê của thầy Lê Chước, như đã nói ở trên.
Không có sắc phong, nên không xác định được vị khai khẩn, mặc dầu Đại Phong được coi là địa linh, nhân kiệt. Sử làng còn lưu truyền về 3 trong 4 vị Quận công dưới triều Mạc là người Đại Phong. Dân làng có dựng miếu gọi là miếu “Chung Linh” để thờ cúng. Có Phạm thượng tướng dưới triều Lê và các sỹ phu, văn nhân nổi tiếng. Cuối triều Nguyễn có cha con Ngô Đình Khả, Ngô Đình Diệm làm quan đến Thượng thư. Có Hồng y Nguyễn Văn Thuận…
Thiếu thành hoàng làng, dân Đại Phong như thiếu đi một chương trong lịch sử quê hương. Điều này vẫn canh cánh trong lòng dân làng. Thế rồi, vào năm 1960, quê nghèo chiêm trũng Đại Phong bổng xuất hiện một ông Đại tướng về làng tìm hiểu, nghiên cứu, chỉ vẽ cách làm ăn tập thể. Chỉ trong 1 năm, mức sống dân làng từ bần nông được nâng lên ở mức của trung nông. Nhà nhà có của ăn của để. Trẻ già, trai gái vui như ngày hội. “Gió Đại Phong” đã thổi. Bác Hồ viết bài khen “Một hợp tác xã gương mẫu” đăng trên báo Nhân Dân ngày 11 tháng 1 năm 1961. Bác tặng Đại Phong máy kéo. Cả nước thi đua học tập và đuổi kịp Đại Phong. Không dừng lại ở đó, ông tổ chức tổng kết kinh nghiệm, mở hội nghị toàn quốc ngay tại Đại Phong. Lần đó, tất cả hơn một nghìn đại biểu, các Bí thư tỉnh ủy, cán bộ chính quyền, các nhà khoa học… đã về Đại Phong học tập, thảo luận, tìm con đường đi lên no ấm. Rồi khai hoang mở rộng diện tích, phát triển chăn nuôi. Rồi đưa giống mới năng suất cao, mở thêm ngành nghề để tăng thu nhập. Như chiếc đũa thần vừa được ông vung lên, Đại Phong thay da, đổi thịt. Dân làng nhớ ơn ông.
3. Một con người bình dị mà vĩ đại.
Ông là tướng nhưng lại  rất yêu văn chương, hò Huế, hò khoan Lệ Thủy. Ông sống giản dị, trọng ân tình và nặng lòng trắc ẩn. Ba tôi kể rằng: lúc ấy dân làng chẳng biết ông là Đại tướng, vì lúc nào ông cũng một bộ nâu sồng, quần xắn đầu gối, lội ruộng. Làng tôi có một bà Chuyết bị bệnh hủi, sống một mình cô quạnh. Có lần, đêm đi công việc về, thương ông, người phục vụ nấu cho ông bát cháo gà, ông bảo bưng sang cho bà ấy. Bà Chuyết đưa bàn tay đã rơi rụng đầu ngón đón bát cháo mà nước mắt chan hòa. Thời đi khai hoang ở Bến Tiến, để tiết kiệm thời gian, dân làng chèo đò đi cả đêm để sáng ra là đến nơi. Người chèo thay ca nhau để ngủ. Ông cũng tranh lấy chèo, quẫy nước điệu nghệ, cất tiếng hò khoan “Muối ba năm muối đang còn mặn; Gừng chín tháng gừng hãy còn cay; Đôi ta tình nghĩa bấy rày; Dù có xa nhau chăng nữa; Ba vạn sáu ngàn ngày cũng nỏ xa”…
Dòng máu ấy chảy trong ông có lẽ vì ông sinh ra ở đất Quảng Điền, Thừa Thiên, một vùng thuần nông đầy gian khó. Cha mất sớm, phải đi làm thuê kiếm sống từ nhỏ nên cảm được nỗi cơ cực của kiếp tôi đòi. Khát vọng tự do đã nhen lên trong ông ngọn lữa cách mạng rất sớm. 23 tuổi đã được kết nạp vào Đảng. Sau đó một năm (1938) mới 24 tuổi đã là Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên. Ba lần bị Pháp bắt cầm tù. Năm 1941 ông vượt ngục Buôn Ma Thuột, móc nối cơ sở, lại làm cách mạng. 31 tuổi (1950) ông được bầu vào Ủy viên Trung ương Đảng. Được cử làm Chủ nhiệm Tổng cục chính trị quân đội, kiêm thêm Chủ tịch Liên đoàn thanh niên Việt Nam.
Ông được phong Đại tướng vào ngày 31 tháng 8 năm 1959. Ngay năm sau ông đã vào Đại Phong. Sau phong trào Đại Phong, “Buông tay cày, cầm ngay tay súng”, vào tháng 3 năm 1964, ông lại khoác áo lính vào chiến trường Miền Nam làm Tư lệnh chiến trường, phụ trách Trung ương Cục, Chính ủy Quân ủy. Đáng tiếc một con người tài năng, đức độ như ông đã phải sớm từ giã cõi trần. Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 vì bệnh tim. Thời đó còn giữ bí mật, không ai biết. Mãi sau này khi biết tin, ở làng Đại Phong, nhiều nhà thắp hương tưởng nhớ ông.
Bây giờ, dân Đại Phong thờ ông như một Thành Hoàng làng.

Chủ bút: Hỗn Tạp Blog

Hỗn tạp blog, blog lưu giữ tất cả các bài viết hay trên mạng internet, từ tin tức công nghệ, cho đến sức khỏe, làm đẹp. Từ thủ thuật blogger cho đến Facebook

Có thể bạn sẽ thích

Có 0 nhận xét Đăng nhận xét