Ngọc Tuân
“Tre xanh xanh tự bao giờ,
Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh”
Đấy là hai câu mở đầu của bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, bài thơ mà tôi rất thích vì mỗi lần đọc nó tôi lại cảm nhận được hồn cốt của làng quê Việt.
Quê tôi cũng vậy –tất nhiên là quê của ngày xưa- tre và người như là cặp đôi bất diệt của tạo hóa. Người ở đâu, tre ở đó, người trồng tre, tre bao bọc lấy người một lòng một dạ thủy chung. Bờ tre là giới hạn của làng với bao la đồng ruộng. Bờ tre là giới hạn của thôn này với thôn khác. Bờ tre là giới hạn vườn nhà tôi với nhà anh. Bờ tre là giới hạn cuộc đời thành đạt mỗi khi bước qua khỏi lũy tre làng.
Khi còn bé, tuổi thơ tôi đã gắn với cái nôi tre lắc lư trong tiếng ru của bà, của mẹ. Nương nhờ nhịp tao nôi mà người lớn nhắn gửi biết bao nhiêu tâm sự, nỗi niềm qua những lời ru “Chàng ơi cho thiếp đi cùng/ Đói no thiếp chịu lạnh lung thiếp cam”. Lớn hơn một chút, chiếc chõng tre thênh thênh bờ tre lộng gió ngày hè đưa tôi vào giấc ngủ. Dưới tán lá tre xanh những trò chơi đồng giao con trẻ chẳng thể nào phai mờ cho đến tận ngày tóc bạc răng long.
Cha mẹ tôi nghèo, khi ra ở riêng ông bà nội dựng cho một căn nhà tre mà từ cái cột, kèo, đòn tay, rui, mè, lạt buộc đều được lấy từ mấy búi tre sau vườn hạ xuống. Xóm làng kéo đến, kẻ đục, người đẽo, chằng buộc, đánh gianh, vài ngày thôi là có mái nhà còn thơm mùi tre tươi, cỏ gianh mới bứt. Vách nhà cũng được buộc ô bằng tre chẻ nhỏ rồi đạp rơm với đất trát lên. Cũng có ô cửa sổ nhìn ra vườn để nay mai tôi treo lên đó một tấm ván nhỏ làm bàn học và mơ màng nghe tiếng chim hót từ lũy tre sau nhà.
Chẳng có vật dụng gì trong nhà mà không được làm từ tre. Tre làm cối xay thóc, làm dần, sàng, thúng, mủng, đan rổ rửa rau, đan rá đựng cơm, đan nơm bắt cá, đan giỏ, làm lờ, làm chẹp. Ngày ngày cha tôi ra đồng trên vai là đòn gánh, đòn xóc, cái gầu tát nước, bó lạt bằng tre.
Quê tôi giữa vùng chiêm trũng, hàng năm, cứ vào dịp tháng năm nắng chang chang đổ lửa, cứ vào dịp tháng tám là bão to, tháng chín là mưa lớn, lũ về, tháng mười là gió mùa đông bắc đầm dề tê tái. Lũy tre làng như thành lũy chắn gió mỗi khi bão về, cây tre dẻo dai đan níu vào nhau gồng mình chịu cho gió tuốt hết lá để giữ cho cái nhà tranh không bị tốc mái. Mùa lũ xuống, đồng điền ngập nước mênh mông sóng dồi lớp lớp xô tung, giật đổ tất cả những gì trên đường nó đi tới. Lũy tre làng lại xoắn lấy nhau thành tường, thành vách chắn sóng cho làng. Đông đến, khuất sau lũy tre là bếp lửa rơm ấm cúng, tre chắn gió lùa. Hè về, lũy tre làng rợp mát là nơi chốn hóng ngọn gió đồng của người già, trẻ nhỏ, là nơi trú nắng sau buổi cày cấy của cô bác lực điền.
Ngày mới lớn, dưới bóng râm của tre làng lũ trẻ chúng tôi đã từng nghe biết bao câu chuyện cổ tích mê ly về tình làng nghĩa xóm, những câu chuyện ly kì về chống giặc, đuổi cướp giữ làng. Rằng, nhờ lũy tre xanh bao quanh mà làng như những đồn lũy kiên cường bất khả xâm phạm. Chẳng ai có thể đi lại tự do băng qua những lũy tre gai ken dày vài mét ấy. Làng chỉ mở những lối thông ra đồng qua cổng làng có người canh gác mỗi khi có biến. Đóng cổng lại, làng trở thành chiến lũy vây bọc bằng tre xanh chẳng ngựa xe nào qua được. Rằng, ngày kháng chiến chống Pháp, dưới gốc những bờ tre ấy là hầm ngầm che chở cán bộ tiến thoái lưỡng tiện, có cơm gói bằng mo cau, có nước uống trong quả bầu khô giấu sẵn dưới hầm. Đạn pháo từ đồn Hòa Luật, đồn Thượng Phong, đồn Tuy Lộc dẫu có bắn thì cũng nổ trên ngọn tre, còn lâu mới xuyên được đến gốc. Từ dưới những chiếc hầm bí mật ấy đêm đêm bộ đội địa phương xuất quỷ, nhập thần công đồn, bắt Tây cướp súng, diệt ác trừ gian.
Từ những câu chuyện ấy, lũ trẻ chúng tôi mới biết cách trồng tre của làng cũng lắm công phu. Lũy tre làng được trồng làm ba lớp. Ngoài cùng là tre gai, giữa là tre đụn, trong cùng là tre mật. Ba lớp tre ấy ken vào nhau lâu năm thì chẳng có gì phá nổi. Tôi còn nhớ, những năm cây tre ít còn công dụng cho con người, cha tôi đã thuê người phá lũy tre cạnh nhà. Người làm phải chặt trụi tận gốc, chất rơm lên đốt mấy ngày cho chết hết gốc rồi dùng cuốc chim bổ từng gốc một mất cả tháng trời mới xong.
Những lũy tre làng xanh ngút ngắt kéo dài hàng cây số từ đầu đến cuối xã ngăn cách cánh đồng với thôn xóm như một biểu tượng của sự yên bình. Chiều chiều, trên cao lũy tre ấy là thế giới của sự sống, cò, vạc, cu gáy, chích chòe, chào mào, sáo sậu, chàng làng, sẻ đồng… inh ỏi trong bản hòa tấu chim muông. Lũ chúng tôi chẳng đứa nào lúc còn nhỏ mà chưa một lần trèo cây lấy tổ chim, chưa một lần phơi đầu tóc cháy khét ngoài bờ ruộng bắt châu chấu nuôi những con chim đỏ hỏn.
Bây giờ, còn đâu những lũy tre xanh vẽ nên cốt cách làng quê. Còn đâu nơi cất dấu những kỷ niệm tuổi thơ.
Có 0 nhận xét Đăng nhận xét