BÍ ẨN VỀ NGÔI MỘ VÀ SỐ PHẬN NGÔ ĐÌNH DIỆM

Ngọc Tuân



                                   (Núi An Mã)

Ngôi mộ đó được thiên táng. 
Số là, ông nội ông Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Dinh (gốc ở huyện Quảng Ninh), làm nghề chài lưới, nghèo lắm. Vợ chết sớm, ở làng đang có chuyện đấu tố giáo dân theo lệnh triều đình nên ông tìm đến làng Đại Phong với một đứa con trai mới 6 tuổi, được làng cho làm sai dịch ở đình làng, mỗi khi có việc làng thì đun trà, rửa chén… Chẳng may do bệnh tật, đói rét ông Dinh chết. Bấy giờ, làng cho trai đinh bó chiếu, chèo thuyền đưa lên núi chôn. 

Đến bến Kéc (chân núi An Mã) thì trời sập tối. Lúc trai đinh khiêng xác lên một đoạn thì nghe tiếng hổ gầm, sợ quá, khoét vội một chỗ lấp tạm, định bụng sáng mai lên chôn lại. Hôm sau, họ tìm vào thì mối đã đùn lên ngôi mộ tạm thành gò lớn. Các bô lão cho là thiên táng nên để vậy. Còn đứa con trai 6 tuổi, mồ côi cha được một cố đạo người Pháp ở làng Mỹ Phước nhận nuôi. Đứa con trai đó sau này là Thượng Thư trong triều Nguyễn, ông Ngô Đình Khả, thân sinh ông Ngô Đình Diệm. 

Thực ra khi đó chẳng ai để ý đến ngôi mộ của một kẻ nghèo hèn, lâu ngày cây cỏ um tùm trông như một gò đất to. Đất An Mã xưa rất lạ, mặc dầu không cằn cỗi (vì bây giờ người ta trồng rừng, cây lên thành cổ thụ) nhưng ở đây chỉ mọc một thứ cỏ gianh xanh mướt suốt từ chân lên đến đỉnh. Mỗi khi gió thổi, sóng cỏ đuổi nhau chạy lao xao từ chân núi lên. Cứ như ngàn vạn bước chân chạy lên trời vậy. Mải đến sau này, vào năm 1936 bà Ngô Đình Khả dẫn các con Ngô Đình Thục, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn về làng Đại Phong thăm quê hương, cúng tế, sửa sang cho ngôi mộ thì mọi người mới để ý đến. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đại bổ làm Thượng thư bộ Lại 3 năm.

Ông Ngô Đình Khả, từ ngày đỗ đạt không về làng vì một lời nguyền năm xưa. Khi ông đỗ đạt, triều đình cho thông tư về làng báo lên tỉnh rước sắc bằng. Song, các bô lão làng Đại Phong không nhận. Lý do mà các bô lão đưa ra là, trong sổ đinh làng Đại Phong không có ai tên là Ngô Đình Khả. Chuyện này chắc cũng có lý, vì khi ông Ngô Đình Dinh (bố ông Khả) mất, ông Khả mới 6 tuổi và được cha đạo ở làng Mỹ Phước, Đại Phong nhận nuôi. Thời đó 6 tuổi thì chưa vào sổ đinh, thậm chí chưa có tên chữ. Sau đó, vị cố đạo thấy Khả có trí thông minh nên cho ra Hà Nội học trường Pháp, rồi về làm việc trong triều đình Huế. Lúc đầu ông chỉ làm chân thông ngôn cho đại diện Pháp với nhà vua. Do có năng lực ông được cất dần lên đến Thượng thư. Vì chuyện này mà ông Khả giận làng Đại Phong, thề sẻ không về làng và nhận làm con dân làng Phủ Cam, Huế. Sau này, khi hiểu ra, làng Đại Phong có cử các bô lão vào Huế xin lỗi. Ông Khả thông cảm và có đóng góp tiền để dựng lại đình làng và xây nhà thờ Tây Hạ.

Xung quanh ngôi mộ đó, có rất nhiều giai thoại về câu chuyện chạm long mạch làm họ Ngô khốn đốn! Thực hư không biết thế nào, nhưng mấy tháng trước (2010) khi hầu chuyện một vị sư già trong đoàn chư tăng về làm lễ cầu siêu cho Lễ thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh (chôn gần đó), nhà sư nói rằng: “Âm phần ở đây còn vượng khí lắm, chí ít cũng sinh công hầu, khanh tướng, chỉ tiếc một điều… cái điều đó tôi chưa thể nói ra, nhưng khi hóng chuyện thấy rằng: Long mạch An Mã xứ Lệ linh thiêng quá, nên gom lại những sự kiện dược cho là chạm long mạch ngôi mộ họ Ngô để kiểm chứng.

Lần chạm long mạch thứ nhất, đấy là vào năm 1939. Khi đó một nhà tư sản lúa gạo, người Đồng Hới, có cái tên rất Pháp là Paul Ngọc, chẳng hiểu lý do gì đã bỏ tiền mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Thực ra, Ba Canh không phải vùng màu mỡ để sản xuất lúa gạo. Để canh tác, ông Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy. Vì vậy, chạm long mạch. Lần chạm này đã dẫn đến tai vạ: Thượng thư Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức vì trái mệnh triều đình. Thực ra ông Diệm phải chịu cái tội “giời ơi” vì ông chủ trương cải cách quản lý để giảm bớt sự lộng hành của người Pháp. Lúc đó người Pháp chia Việt Nam thành 3 kỳ và chỉ để cho triều đình có thực quyền ở Trung Kỳ mà thôi. Triều đình không thuận, ông từ chức. Việc cách chức của triều đình chỉ là chữa thẹn mà thôi. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi – anh ruột ông Diệm, đang làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên phó toàn quyền Đông Pháp Nouailletas gây khó dễ. May thay, thời kỳ này, chiến tranh thế giới lần thứ 2 đã làm công cuộc khai phá Ba Canh ngừng lại. Họ Ngô tạm yên ổn.

Lần chạm long mạch thứ 2, đấy là vào năm 1944. Khi đó người Nhật chiếm Đông Dương. Được sự giúp đỡ của một chuyên gia canh nông người Nhật, ông Paul Ngọc lại khai phá Ba Canh. Lại đào kênh dẫn thủy, lại chạm long mạch. Lần này xem ra tệ hơn, nên đã gây đại họa cho dòng họ Ngô. Ông Ngô Đình Khôi, tổng đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị những người kháng chiến bắt tại Huế rồi dẫn ra Bắc (cùng với ông Phạm Quỳnh và nhiều quan lại khác nữa) theo lệnh trên. Song, khi ra đến Hương Trà thì bị thủ tiêu. Ông Ngô Đình Diệm cũng bị Việt Minh bắt khi đang trên đường từ Sài Gòn ra Huế. Lần bị bắt thứ nhất là ở Nha Trang. May nhờ kỹ sư Đặng Phúc Thông ở nhà ga Nha Trang can thiệp, ông được tha. Song hôm sau từ Nha Trang ra đến sông Cầu Riêng thì bị bắt lại, giải ra Bắc giam ở Tuyên Quang. Do trước đó, ông Diệm lập tổ chức tìm cách liên hệ với Nhật để chống Pháp, ủng hộ Kỳ Ngoại Hầu Cường Đễ nên không bị thủ tiêu. Nghe nói, khi ông Diệm bị bắt, cụ Hồ, với chính sách mặt trận của mình, có gặp và thuyết phục ông Diệm tham gia chính phủ lâm thời, nhưng ông Diệm từ chối.Lý do ông Diệm từ chối là ông trách người Việt Minh đã giết anh và cháu ông. Thực ra, ông Khôi chết là vì ông Khôi cùng Thượng thư Phạm Quỳnh và một số quan lại chủ trương thân Pháp, chống cộng sản và ông Khôi khét tiếng độc ác đối với những người cộng sản. Khi là Tổng đốc Quảng Nam, mỗi lần bắt được cộng sản nằm vùng, ông tra tấn rất dã man. Ngón đòn ông đắc ý nhất là dùng lửa đèn cầy đốt hậu môn kẻ tình nghi. 

Cụ Hồ thuyết phục không được đã thả tự do cho ông. Việc thả tự do cho ông Diệm còn nhờ vào sự can thiệp của cha Lê Hữu Từ, lúc đó đang là cố vấn tôn giáo cho chính phủ lâm thời. Được thả tự do, ông Diệm về sống tại nhà thờ dòng cứu thế Nam Đồng rồi vào Đà Lạt sống ẩn dật với vợ chồng Ngô Đình Nhu. Sau đó, vào năm 1951, ông Diệm trốn sang Mỹ, ở New Jesey vận động đôc lập cho Việt Nam. 

Còn ông Ngô Đình Nhu bấy giờ cũng đã được ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ chính quyền Cách mạng, ký sắc lệnh số 21 ngày 8-9-1945 bổ nhiệm ông Ngô Đình Nhu làm giám đốc Nha Lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Nhưng ông Nhu từ chối không đến nhiệm sở. Gần đây, tờ quyết định này đã được công bố công khai nhân ngày ông Võ Nguyên Giáp trăm tuổi, tai Cục lưu trữ Quốc Gia.

Trở lại câu chuyện long mạch. May thay, Cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến chống Pháp, đất Ba Canh trở thành căn cứ của Việt Minh, làm sự nghiệp khai hoang của ông Ngọc bị bỏ dở. Ngày tháng trôi đi, vết thương long mạch được hàn gắn, họ Ngô lại phục hồi, hưng vượng. Năm 1954, ông Diệm được Bảo Đại mời về làm Thủ tướng. Một năm sau, trong cuộc trưng cầu ý dân, ông lên làm Tổng thống chính thể đầu tiên của VNCH. Cùng với đó, ông bổ nhiệm các em mình vào các vị trí cốt tử. Ngô Đình Nhu làm cố vấn đặc biệt, Ngô Đình Luyện làm đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn lãnh chúa Tây Nguyên. Còn ông Ngô Đình Thục trở thành Tổng giám mục chăn dắt hàng triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo.

Lần chạm long mạch thứ ba đã tuyệt diệt dòng họ Ngô Đình. Lần này có rất nhiều giai thoại rất bí ẩn. Nguời ta nói rằng, lần này là do bộ đội đào hầm hào, mở đường, chuẩn bị chống chiến tranh mà Ngô tổng thống hô hào “Lấp sông Bến Hải, Bắc Tiến” phạm phải. Có người còn nói là việc đào hầm hào ở đây là có tính toán trước, và được ngụy trang bằng Phong trào xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp Đại Phong. HTX này đã đưa người lên khai hoang Bến Tiến (Ba Canh), dưới chân An Mã, đào kênh đẫn thủy, chạm long mạch. Cùng lúc đó, còn có một tiểu đoàn bộ đội đào hầm hào ở chân đồi An Mã (Những hầm ngầm và giao thông hào chằng chịt dưới chân An Mã vẫn còn đến ngày nay). Khi viết bài này tôi đã đến đó 2 lần, tìm lại dấu tích ngôi mộ xưa, giờ chỉ còn là một búi tre gai đơn độc giữa rừng thông mới. Một trong những đường hào đó đi qua ngay trước mặt ngôi mộ chỉ khoảng 3 mét. Công cuộc đào hầm hào là có thật. Để tính trước cho cuộc chiến lâu dài ở Miền Nam, người ta đã định xây dựng ở đây một công binh xưởng để sản xuất vũ khí, chuyển vào Nam. Cạnh cái công binh xưởng ấy là một mỏ sắt. Lời đồn đoán bộ đội đào hào cắt long mạch chỉ là phỏng đoán từ sự việc bí mật xây công binh xưởng mà thôi. Sau một thời gian đào bới làm đứt long mạch ngôi mộ, gia đình họ Ngô tuyệt mệnh, anh em Diệm, Nhu bị quân đảo chính bắn chết. 

Thời gian này trùng lặp với sự kiện xây dựng HTX Đại Phong. Để mở rộng đất đai phá xiềng "ba sào", ông Thanh đã hô hào dân Đại Phong lên khai hoang Bến Tiến. Mỗi lần đi ấy, đều xuất phát từ đình làng Đại Phong, chèo thuyền đi vào ban đêm. Có lần tướng Nguyễn Chí Thanh đi cùng, hò khoan, hò hụi rất vui vẻ. Có giai thoại nói rằng, trong đoàn đi ấy có một thầy địa lý gầy gò mặc chiếc áo rộng thùng thình, đội cái mũ sụp xuống đi cùng tướng Thanh. Một số người đoán đó là ông Cả Đạt, một thầy địa lý cao thủ của xứ Nghệ. Nhưng chắc không phải, vì ông Cả Đạt mất trước năm 1963. Có lẽ vì ông là người được ví như Cao Biền của xứ Nghệ nên nguời ta đoán già, đoán non vậy thôi.

Có giai thoại nói rằng, những năm đó, với sự giúp đỡ của người Tàu, Việt Nam đã mở đường Trường Sơn vào Nam để tiếp tế cho chiến trường. Việc xây dựng công binh xưởng ở Ba Canh, An Mã để sản xuất vũ khí tại chỗ không cần thiết nữa nên dừng lại. Vì vậy, năm 1963, phong trào Đại Phong cũng lắng xuống. Chẳng qua, khai hoang Bến Tiến chỉ là cái cớ ngụy trang để bộ đội xây công binh xưởng mà thôi. Ai lại đi cử một ông Đại tướng đi làm nông nghiệp. Khai hoang Bến Tiến chỉ cho sản phẩm là sắn. Vả lại, đất đồng bằng sông Hồng thiếu gì nơi màu mỡ mà vào tận cái vùng “khỉ ho, cò gáy”, “cóc đái một bãi là ngập lụt” ấy để xây dựng lá cờ đầu nông nghiệp.

Có người nói, chọn Đại Phong là một đòn chính trị vì Đại Phong là quê hương ông Diệm. Những năm đó, ông Diệm cứ hô hào “Lấp sông Bến Hải, Bắc tiến”. Xây dựng Đại Phong là để nói với ông Diệm rằng: quên hương ông đang giàu lên nhờ cách mạng, cớ sao ông định đem xe tăng ra càn lúa. Chẳng biết mô tê gì, nhưng thời đó dân Đại Phong sướng thiệt, thóc lúa ăn không hết gửi kho HTX.

Thôi thì lắm thầy nhiều ma, sự thật vẫn là sự thật. Tôi đã đọc trong "Ô Châu cận lục" của Dương Văn An, bản dịch của cụ Bùi Lương, do nhà Văn hóa Á châu xuất bản năm 1961, phần Địa Lý ở trang 42 có ghi "huyện Nha Nghi có 80 huyệt". Đây là các huyệt đạo mà các thầy địa lý xác định, có điều các bản dịch sau này cho đó là mê tính nên lược đi. Công cuộc khai hoang bến Tiến là có thật, giờ là nông trường Đại Giang. Nó trở thành địa danh trong bài Quảng Bình ca “Có ai về Đại Phong, Xin vô ghé thăm vùng Bến Tiến”. Núi an Mã còn đó, với những hầm hào lở loét quanh mình. Trong chiến tranh, người ta còn lùa trâu bò vô những hầm ngầm kiên cố bằng bê tông để tránh bom Mỹ. HTX Đại Phong sau năm 1963 thì cũng “lặng gió”. Ông Nguyễn Ngọc Ánh, chủ nhiệm đầu tiên được phong anh hùng lao động rồi điều lên huyện. Người kế nhiệm là ông Đặng Ngọc Đính, năm nay đã 82 tuổi, 60 tuổi đảng, còn đó làm nhân chứng sống. Ông vẫn lặng lẽ cứ đến ngày sóc, vọng thắp hương cho tướng Nguyễn Chí Thanh tại gian thờ trên tầng 2 nhà văn hóa làng. 

Gia đình họ Ngô nghe đâu còn bà Trần Lệ Xuân (vợ ông Nhu) cùng các con. Bà Nhu sống một mình trong một căn hộ gần tháp Effen bên Pháp. Con trai là Ngô Đình Trác, kỹ sư canh nông lấy vợ người Ý, có 3 trai, 1 gái. Con thứ Ngô Đình Quỳnh thì không lấy vợ sống tại Bỉ. Cô út Ngô Đình Lệ Quyên, tiến sỹ luật, lấy chồng ở Ý.

Ngôi mộ kết phát đế vương của dòng họ Ngô ở Bến Kéc, An Mã giờ chỉ còn dấu tích là một khóm tre gai và một ít gạch đá bị đập vỡ vụn. Khi tôi tìm vào đến đây, đường hào giao thông phía trước mộ vẫn còn, dân bản địa nói chỗ gạch đá ấy là cây thập tự còn lại cuối cùng bị trẻ chăn trâu đập phá.

Về Lệ Thủy, gần đây thoáng buồn về những than phiền, trẻ con chăn trâu ở các khu mồ mả cứ thấy người viếng mộ là đổ ra xin tiền. Xôi, chuối không lấy, chỉ xin tiền, nếu không cho thì đập phá mồ mả, không biết đời sau có sao không? Chính quyền ở đâu!!!

***

Vừa đúng 2 tháng, tức là 60 ngày, kể từ khi công bố bài viết này, vào ngày 24 tháng 4 năm 2011 bà Trần Lệ Xuân, phu nhân ông Ngô Đình Nhu đã qua đời ở Italia, thọ 87 tuổi.

Ngày 16 tháng 4 năm 2012, cô gái út Ngô Đình Lệ Quyên cũng bị chết vì tai nạn giao thông. Những đứa con của cô vẫn mang dòng họ mẹ "Ngô Đình". Tháng tư là tháng nghiệt ngã với họ Ngô.

Chủ bút: Hỗn Tạp Blog

Hỗn tạp blog, blog lưu giữ tất cả các bài viết hay trên mạng internet, từ tin tức công nghệ, cho đến sức khỏe, làm đẹp. Từ thủ thuật blogger cho đến Facebook

Có thể bạn sẽ thích

Có 3 nhận xét Đăng nhận xét

avatar

Buồn quá quê hương Lệ Thủy yêu dấu của ta ơi! Bao nhiêu long mạch bị tàn phá hết rồi, còn mô là " địa linh" để có thêm "nhân kiệt" cho quê ta nữa! Thương lắm đi thôi !

avatar

Nếu Ngô đình Diệm, Ngô đình Nhu không chết bất đắc kỳ tử năm 1963 thì miền Nam Việt Nam bây giờ ngang ngữa Đại Hàn dân quốc, vinh quang,thịnh vượng chứ không suy nhược, yếu hèn như chúng ta đang thấy.

avatar

hãy nói cho đúng sự thật để lòng mình không áy náy