HÃY LẮNG NGHE HÒ KHOAN NĂM MÁI

MỜI CÁC BẠN NGHE BĂNG GHI ÂM HÒ NĂM MÁI













ĐỊA LINH SINH NHÂN KIỆT VÕ NGUYÊN GIÁP


                                                  Ngôi nhà nơi chôn nhau cắt rốn

Lần theo câu ca “Nhất Đồng Nai, nhì hai huyện” tôi tìm về Lệ Thủy sau những ngày để tang Đại tướng. Hình ảnh những biển người đứng dọc con đường linh cửu Đại tướng đi qua để đưa tiễn Người trong ngày quốc tang đã làm tôi cảm phục về một con người kiệt suất. Bấy lâu nghe truyền tụng về vùng quê nơi sinh ra ông là địa linh nên tìm về trải nghiệm. Có gì đó rất khác thường khi nghe câu thành ngữ truyền tụng hàng trăm năm nay xếp hạng vùng đất hai huyện Khang Lộc (sau đổi là Quảng Ninh), Lệ Thủy trù phú chỉ sau Đồng Nai. 

Lại một lần nữa "tâm phục, khẩu phục" bởi câu “trăm nghe không bằng một thấy”, ít ai ngờ rằng nằm kẹp giữa dãy Trường Sơn và Trường Sa cát trắng ven biển miền Trung là cánh đồng màu mỡ mênh mông của hai huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy, được bồi đắp bởi phù sa của Trường Sơn hàng năm lũ lụt mang về. Đến bây giờ dân Lệ Thủy vẫn chỉ làm một vụ lúa Xuân – Hè, tháng 5 thu hoạch xong chỉ cần vãi ít đạm, gốc rạ lại đẻ nhánh cho vụ thu hoạch thứ hai, vậy là đủ ăn quanh năm. Hạt lúa thu hoạch đợt hai ấy dân Lệ Thủy gọi là "lúa con", dẻo thơm, sạch và rất kinh tế vì không mất công cày cấy. Ruộng đồng có tốt tươi, màu mỡ thì mới được ăn lộc trời như vậy.

                                                               Cánh đồng bát ngát
Địa linh sinh nhân kiệt

Về đây mới thấy hết sự thú vị khi được đắm mình trong những truyền thuyết địa linh sinh nhân kiệt xứ Lệ đã sinh ra những bậc tài danh như những tiến sĩ Phạm Đại Kháng, Dương Văn An, Nguyễn Hữu Cảnh, Lê Đa Năng, Nguyễn Trường Cửu, Vũ Xuân Hán, Nguyễn Đăng Hành, Lê Đại, Võ Khắc Triển... Chỉ trong mấy trăm năm triều Nguyễn mà đã có đến 10 vị Thượng thư là người Lệ Thủy. Một cái Tổng Đại Phong nhỏ bé với vài địa danh làng Đại Phong, Tuy Lộc, An Xá mà đã cống hiến cho đời cả chục con người kiệt suất. Đi đến đâu cũng đặc biệt thú vị khi nghe những giai thoại về hai con người ở hai bên chiến tuyến Võ Nguyên Giáp và Ngô Đình Diệm sinh ra ở hai làng cách nhau chỉ hơn cây số.

Người Lệ Thủy tự hào về Dương Văn An, tự Tỉnh Phủ, người làng Tuy Lộc, thuộc xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy sinh năm 1514, thi đậu tiến sĩ năm Đinh Mùi (1547), dưới thời nhà Mạc. Người đã để lại cho đời sau tác phẩm nổi tiếng “Ô châu cân lục”. Không có nó, bây giờ lấy gì cho người đời sau biết về Bố Chính, Ma Linh, Địa Lý về phong thổ, con người, văn hóa lối sống của ngày đầu mở cõi.

                                                            Lăng mộ Nguyễn Hữu Cảnh

Người Lệ Thủy tự hào về Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đã có công giúp nhà Nguyễn di dân khai hoang mở cõi, dàn xếp biên cương, tạo lập nên vùng Sài Gòn - Gia Định cùng miền Tây Nam bộ. Đem theo ông là dân xứ Quảng cùng tên gọi của các địa danh gợi nhớ quê hương Tân Bình (tên tỉnh Quảng Bình xưa) nay vẫn còn đó ở Sài Gòn như Bình Dương, Bình Đông, Bình Tây, Bình Tiên, Bình Trị, Bình Long, Bình Quới, Bình Hòa, Bình Điền, Bình Phước, ...Tân Định, Tân Hưng, Tân Khai, Tân Thuận, Tân Mỹ, Tân Phước, Tân Thạnh... Sự nghiệp đang dở dang, mắc trọng bệnh, ông mất năm Canh Thìn (1700) nhưng vẫn trối trăng cho con cháu đưa mình về đất mẹ Lệ Thủy. Mộ ông yên nghỉ dưới chân núi An Mã.

Người Lệ Thủy truyền tụng câu chuyện về Tổng Đại Phong có hai cái làng nhỏ Đại Phong và An Xá cách nhau con hói (ngòi) nhà Mạc đã sinh ra hai đứa trẻ mà “Khi mới chập chững biết đi đã tính chuyện chia đôi thiên hạ” là Ngô Đình Diệm và Võ Nguyên Giáp. 

Dân xứ Lệ cho biết rằng, hai làng An Xá, Đại Phong thuở sơ khai là chung một làng có tên Đại Phúc Lộc. Cái làng ấy có quá nhiều người tài giỏi. Dưới thời nhà Mạc, trong tứ trụ triều đình thì đã có đến ba người quê làng Đại Phúc Lộc. Mạc Thái Tông liền cho người về dò xét rồi sai đào Hói Đại chia đôi đất Đại Phúc Lộc để cắt long mạch. Hói Đại từ ngày đào xong cứ đến ngày hè là nước đỏ như máu. Mỗi trận mưa xuống, nước hói chia thành hai dòng trong đục khác nhau, chảy mãi đến cuối nguồn không hòa lẫn.

Người Lệ Thủy say sưa kể một giai thoại về 3 lần chạm long mạch làm lao đao dòng họ Ngô và sự nghiệp của Ngô Đình Diệm. Chuyện kể rằng, dòng họ Ngô Đình vốn quê làng Xuân Dục, phủ Quảng Ninh (huyện Khang Lộc xưa trong địa danh hai huyện), tỉnh Quảng Bình, theo đạo Công giáo La Mã từ thế kỷ thứ 17. Trong giai đoạn triều đình cấm đạo gắt gao, nhiều làng họ đạo bị đốt, tín đồ bị truy bức, dòng họ Ngô Đình phải bỏ làng Xuân Dục phủ Quảng Ninh mà di cư về làng Đại Phong thuộc huyện Lệ Thủy, nơi có nhiều dân Công giáo hơn.

Theo các bô lão ở Lệ Thủy kể lại, ông nội của ông Diệm là Ngô Đình Dinh thuộc vào hàng bần dân khốn khổ, sinh kế bằng nghề chài lưới. Vợ mất sớm, ông mang đứa con nhỏ xuống thuyền, ngày thì đánh cá mang lên chợ Đợi (nay ở xã Tuy Lộc quê tướng Giáp) để bán, đêm thì buộc thuyền ở bến chợ lên ngủ nhờ đình làng Đại Phong, làm thêm việc quét tước đình làng, nấu nước phục dịch mỗi khi chức sắc làng có việc. Do lao lực, đói rét ông Dinh mất sớm để lại đứa con nhỏ mới 6 tuổi. Đứa con nhỏ đó chính là Ngô Đình Khả, Thượng thư triều Nguyễn, thân sinh Ngô Đình Diệm sau này. 

Ông Ngô Đình Khả có vợ là Phạm Thị Thân cùng quê làng Đại Phong. Ngô Đình Diệm là người con thứ ba trong gia đình với hai người anh đầu là Ngô Đình Khôi và Ngô Đình Thục. Ngô Đình Khôi làmTổng đốc Quảng Nam, còn Ngô Đình Thục một thời làm tổng giám mục. Năm người em là Ngô Đình NhuNgô Đình CẩnNgô Đình LuyệnNgô Đình Thị Giáo và Ngô Đình Thị Hiệp (Bà Hiệp là mẹ của Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận).

Chuyện về ngôi mộ nội tổ Ngô Đình Diệm đầy huyền bí.

Chuyện kể rằng, ông Ngô Đình Dinh mất sớm trong cảnh bần hàn, làng cho bó chiếu, sai dân đinh chèo thuyền đưa lên núi chôn. Thuyền chèo lên đến chân An Mã thì trời tối. Khi khiêng xác lên bờ, được một quãng thì nghe tiếng hổ gầm, đám dân đinh sợ quá vùi vội bên đường rồi quay về bến Kéc, định bụng ngày sau lên chôn lại. Sáng hôm sau, khi tới nơi thì thấy mối xông đùn lên thành gò to nên bỏ về. Ngôi mộ nằm đó, của một người hèn mọn, bần hàn nên chẳng ai để ý. Mải đến sau này, vào năm 1936 bà Ngô Đình Khả dẫn các con Ngô Đình Thục, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn về làng Đại Phong thăm quê hương, vinh quy bái tổ, cúng tế, sửa sang cho ngôi mộ, góp tiền làm lại đình làng, xây nhà thờ đạo thì mọi người mới biết đến. Lúc đó ông Ngô Đình Diệm đã được Bảo Đại bổ làm Thượng thư Bộ Lại 3 năm rồi.

Đang hưng vượng, gia đình họ Ngô bỗng dưng khốn đốn vì ba lần ngôi mộ ấy bị chạm long mạch. 

Lần thứ nhất, đấy là vào năm 1939. Khi đó, một nhà tư sản lúa gạo người Đồng Hới, có cái tên rất Pháp là Paul Ngọc, chẳng hiểu lý do gì đã bỏ tiền mua vùng đất Ba Canh, dưới chân An Mã để canh tác. Ông Ngọc đã cho đào mương dẫn thủy. Vì vậy, chạm long mạch, dẫn đến tai vạ: Thượng thư Ngô Đình Diệm bị Bảo Đại cách chức vì trái mệnh triều đình. Cùng với sự thất sủng của ông Diệm, ông Ngô Đình Khôi – anh ruột ông Diệm, đang làm Tổng đốc Quảng Nam bị viên phó toàn quyền Đông Pháp Nouailletas gây khó dễ. May thay, chiến tranh thế giới lần thứ 2 xảy ra đã làm công cuộc khai phá Ba Canh ngừng lại. Họ Ngô tạm yên ổn.

Lần thứ 2, đấy là vào năm 1944. Được sự giúp đỡ của một chuyên gia canh nông người Nhật, ông Paul Ngọc lại khai phá Ba Canh. Lại đào kênh dẫn thủy, lại chạm long mạch. Lần này xem ra tệ hơn nên đã gây đại họa cho dòng họ Ngô. Ông Ngô Đình Khôi, tổng đốc Quảng Nam cùng con trai Ngô Đình Huân bị giết. Ông Ngô Đình Diệm cũng bị Việt Minh bắt khi đang trên đường từ Sài Gòn ra Huế, bị giải ra Bắc giam ở Tuyên Quang, mãi đến cuối năm 45 mới được được thả ra. Nghe đâu, cụ Hồ đã gặp, vận động ông tham gia chính phủ lâm thời nhưng bất mãn vì chuyện anh mình là Ngô đình Khôi bị Việt Minh địa phương giết, ông không nhận lời. Năm 1951, ông Diệm trốn sang Mỹ, ở New Jesey. Còn ông Ngô Đình Nhu, vào năm cách mạng thành công đã được ông Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Nội vụ chính quyền Cách mạng, ký Sắc lệnh số 21 ngày 8-9-1945 bổ nhiệm làm giám đốc Nha lưu trữ công văn và Thư viện toàn quốc. Nhưng ông Nhu đã từ nhiệm (Gần đây, tờ quyết định này đã được công bố công khai nhân ngày ông Võ Nguyên Giáp trăm tuổi, tại Cục lưu trữ Quốc Gia).

May thay, Cách mạng tháng Tám thành công, rồi kháng chiến chống Pháp, đất Ba Canh trở thành căn cứ của Việt Minh làm sự nghiệp khai hoang của ông Ngọc bị bỏ dở. Ngày tháng trôi đi, vết thương long mạch được hàn gắn, họ Ngô lại phục hồi, hưng vượng. Năm 1954, ông Diệm được Bảo Đại mời về làm Thủ tướng. Một năm sau, trong cuộc trưng cầu ý dân, ông lên làm Tổng thống chính thể đầu tiên của VNCH. Cùng với đó, ông bổ nhiệm các em mình vào các vị trí cốt tử. Ngô Đình Nhu làm cố vấn đặc biệt, Ngô Đình Luyện làm đại sứ VNCH tại Anh, Ngô Đình Cẩn lãnh chúa Tây Nguyên. Còn ông Ngô Đình Thục trở thành Tổng giám mục chăn dắt hàng triệu tín đồ Thiên Chúa Giáo.

Lần chạm long mạch thứ ba đã tuyệt diệt dòng họ Ngô Đình. Lần này có rất nhiều giai thoại rất bí ẩn. Nguời ta nói rằng, thời gian đó (năm 1963) do bộ đội đào hầm hào để xây dựng ở dưới chân An Mã một công binh xưởng bí mật sản xuất vũ khí chuyển vào Nam. Sau một thời gian đào bới làm đứt long mạch ngôi mộ, gia đình họ Ngô tuyệt mệnh, anh em Diệm, Nhu bị quân đảo chính bắn chết. Có người còn nói rằng, việc đào hầm hào ở đây là có tính toán trước, và được ngụy trang bằng Phong trào lá cờ đầu nông nghiệp Đại Phong do tướng Nguyễn Chí Thanh khởi xướng. HTX này đã đưa người lên khai hoang Bến Tiến (Ba Canh), dưới chân An Mã, đào kênh đẫn thủy làm đứt long mạch.

Giai thoại thì vẫn chỉ là giai thoại, còn sự thật thì ở hai cái làng đối diện Đại Phong và An Xá ấy có một Tổng thống đoản mệnh, sự nghiệp giang dở, còn một Đại tướng bách niên giai lão với những chiến công hiển hách.

Một dòng sông Kiến Giang như dòng sữa mẹ hiền với chín ngọn nguồn không bao giờ cạn.

                                                 Tướng Giáp bên bến sông quê

Kiến Giang là chi lưu của Nhật Lệ chảy ra cửa biển Đồng Hới, con sông duy nhất trên cả nước Việt chảy ngược từ Nam ra Bắc và bị gọi là “nghịch hà”. Kiến Giang xưa có tên gọi là Bình Giang. Bình Giang là hợp lưu của 9 ngọn nguồn có tên là Rào Nậy, Rào Con, Rào Sen, Rào Mỹ Sơn, hói Xuân Lai, hói Kỳ Cùng, hói Cừa, hói Ngay và hói Phú Thọ. 9 ngọn nguồn đó tạo nên thế "Cửu long giao giới" có điểm cuối là An Xá. Mỗi ngọn nguồn có một dấu ấn riêng với những sự tích huyền bí. Vào năm Khải Đại thứ 2 (1404) Hồ Hán Thương, với ý muốn tạo đường thủy vận chuyển vào Nam đã cho đào kênh Sen (Liên Cảng) nối sông Bình Giang vào Thuận Hóa. Sông đào nối Bình Giang qua Bàu Sen, từ Bàu Sen nối đến Hạ Cờ vào chợ huyện Quảng Trị. Nhưng khi đào đến Quán Bụt thì cát ngầm cứ đùn lên, đào xong lại đầy, đành bỏ dở. Ở đó, thời Lê có cho dựng Miếu Bảo Đài, theo cách nói lái xứ Lệ thì "Bảo Đài" đọc ngược là “Bãi Đào”. Không ai đổi dòng nó được.

                                          Cổng vào nhà Đại tướng xanh mướt hàng cây

Một lòng son sắt, Kiến Giang trầm mặc, chảy ngược dòng ra Bắc, hội nhập cùng sông Long Đại, Lệ Kỳ tạo nên dòng Nhật Lệ, dẫu có mang tiếng là “ Nghịch hà”, “Chướng Khúc”. Có điều lạ, khi chảy qua làng An Xá, lòng sông hẹp lại và rất cạn bởi “khút bầu ngược”, thuyền bè khi đến đó mùa nào cũng ngược gió dù cho từ Lệ Thủy ra hay Đồng Hới vào. Trước khi giã biệt xứ Lệ nó tràn ra không thể nhận biết đâu là dòng chính tạo nên phá Hạc Hải mênh mông làm cái “nghiên mực” cho ngọn núi “Đầu Mâu” nhọn hoắt chiều chiều đổ bóng xuống Hạc Hải như ngọn bút chấm vào nghiên mực. Đấy là địa linh.
                                                      Đua thuyền trên sông Kiến

Trên con sông ấy, đã hơn 500 năm nay dân hai huyện Khang Lộc và Lệ Thủy cứ vào dịp cuối hạ tổ chức bơi trải để cầu mưa. Dân Lệ Thủy cho biết đường bơi xưa có điểm đầu là vực An Sinh, điểm cuối là An Xá, An Lạc. Mỗi cuộc tỉ thí hơn thua phải đủ "3 vòng, 6 tao" đi về. Từ ngày kháng chiến chống Pháp thắng lợi, dân Lệ Thủy quyết định chuyển nghi lễ cầu mưa thành lễ hội mừng đọc lập vào dịp mồng 2 tháng 9 hàng năm. Trai tráng thì thuyền bơi, nữ thanh thì thuyền đua. Suốt dọc đôi bờ Kiến Giang chỉ thấy rợp màu cờ đỏ cùng áo mới, nón lá, chen vai, thích cánh, trống dục vang trời. Có năm Đại tướng đã về quê xem bơi thuyền vui tết độc lập với bà con quê mình.

                                                         Về quê xem bơi thuyền

Trên con sông ấy dung dưỡng làn điệu hò khoan mà giai điệu của nó đã làm nguồn cảm hứng cho nhạc sĩ Hoàng Vân làm nên tuyệt phẩm “Quảng Bình quê ta ơi”. Người Lệ thủy đam mê hò khoan từ tấm bé, hò khi cấy lúa, khi đạp nước, khi đẩy thuyền, chèo thuyền, khi giã gạo, kéo gỗ, khi chơi bài chòi ngày xuân, khi đưa linh người thân về cõi vĩnh hằng… Mỗi đêm nông nhàn, gốc đa, đầu đình trở thành điểm hẹn cho câu hò giao duyên, ân tình, nhân nghĩa. Đổ gạo vào cối, cầm chày lên là câu chào, câu gửi, câu đợi, câu chờ cho đến khi trời sáng mới hò câu giã biệt. Năm mái hò (làn điệu) mái dài, mái ba, mái chè, mái nện, mái xắp quấn quýt dưới tán tre làng.

                                             Hò khoan trong huyết quản người già

                                                             Hò khoan vào trường học

Đất ấy, văn hóa ấy làm gì mà không sinh ra hào kiệt như ANH VĂN.

Mấy bữa nay, Lệ Thủy đang lụt lớn, lụt sau bão lớn thì cây chết, nhà xiêu, cơ cực vô cùng, xin chia sẻ với những người dân lam lũ, nhưng lúc nào cũng cởi mỡ, yêu đời, thật thà, thuần hậu chốn này. Muốn khóc mà không khóc được nữa.
Từ blog Mõ Làng

KHI MỘT HUYỀN THOẠI KHUẤT BÓNG


Cảm xúc hẫng hụt những ngày này không phải chỉ vì sự khuất bóng một huyền thoại, mà còn là sự thiếu vắng của những giá trị tinh thần, văn hóa cao đẹp, đem lại niềm kiêu hãnh vốn có của người Việt, để nước Việt tiếp tục vượt qua và chiến thắng trong cuộc chiến chống "nội xâm", như đã từng chiến thắng các loại giặc ngoại xâm?


Đời người chỉ sống có một lần.

Toàn bộ cuộc đời ông, từ lúc là một thanh niên trí thức yêu nước, sinh trưởng trong một gia đình nhà nho nghèo ở huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình, một sinh viên Luật, một nhà giáo dạy Sử, một nhà báo, rồi trở thành Tổng Tư lệnh tối cao của quân đội vào năm mới 37 tuổi, cho đến khi giã biệt cuộc đời với cương vị một Đại tướng của đất nước, của nhân dân- vắt qua hai thế kỷ- là một huyền thoại.

Đọc ở huyền thoại đó, có thể thấy những thăng trầm, những dâu bể, mưa nắng, những ấm lạnh của số phận một con người, phản chiếu cả một thời cuộc, một thời đại lịch sử đầy bão giông của đất nước.

Từ lúc vận mệnh, chủ quyền, độc lập và tự do dân tộc bị đe dọa, đến những thời khắc cả dân tộc phải quyết liệt tự "lột xác"- với công cuộc Đổi mới lịch sử. Đọc ở đó, có thể thấy cả sự tài ba trong thao lược quân sự lẫn ý thức trách nhiệm và bổn phận một vị Tướng, không nề hà trước những gánh vác với giang sơn.

Đọc ở đó, có thể thấy một con người đã biết dấn thân vì nghĩa lớn, một bậc nam nhi đã sống trọn vẹn với "chí làm trai" như trong ca dao xưa, làm nên bản sắc văn hóa Việt đặc sắc, đầy chí khí và bản lĩnh: Làm trai cho đáng nên trai/ Xuống Đông, Đông tĩnh, lên Đoài, Đoài yên.

Đọc ở đó, có thể thấy tầm vóc lớn lao của một người Việt đương đại, khiến thế giới phương Tây nể trọng, kính trọng, phải dùng những "thước đo" của nhân loại:

Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, từ thời Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời cận hiện đại với Kutuzov, Jukov..., những người đã có chiến công tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh (Ducan Townson, cuốn Những vị tướng lừng danh)

Từ năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi thời đại.

Với 30 năm làm Tổng Tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính qui. Sự kết hợp đó xưa nay chưa từng có (Tướng Peter Mac Donald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh) (theo Wikipedia tiếng Việt)

Đó là những phẩm chất một con người- một vị tướng- một nhân vật lịch sử, hiếm có và cuối cùng của một thế hệ luôn toàn tâm toàn ý dấn thân, gánh vác cho sự nghiệp bảo vệ độc lập, chủ quyền dân tộc, cho sự giàu mạnh và phát triển của đất nước, với hy vọng sánh vai với các cường quốc năm châu.

Chính vì thế, nỗi đau, nỗi thương xót, tiếc nuối huyền thoại Võ Nguyên Giáp, không chỉ là tiếc nuối một con người với tài năng lớn, phẩm cách tuyệt vời luôn biết đặt lợi ích dân tộc, lợi ích giang sơn lên trên hết, tiếc nuối một con người đã thành "biểu tượng" sống, và niềm tự hào của người dân Việt.

Nhất là những tháng năm này, nước Việt đầy day dứt, và đau xót vì hiện tượng khủng hoảng niềm tin, trước những quốc nạn tham nhũng, nhóm lợi ích, trước những sự băng hoại văn hóa, đạo đức, làm tổn thương sâu sắc những giá trị tinh thần và văn hóa Việt được xây đắp từ ngàn năm.

Người viết bài, đã nghẹn lòng, rưng rưng xúc động, khi nhìn thấy hình ảnh các bạn trẻ đến thắp nến, và tưởng niệm Đại tướng vào lúc 0 giờ đêm ngày 4/10, tại nhà riêng của Đại tướng, ngay sau khi thông tin Đại tướng vừa từ trần được loan truyền trên các trang mạng xã hội.

Hình ảnh những người Việt trẻ đó lặng lẽ và đau xót vĩnh biệt vị Tướng họ yêu quý, ngưỡng mộ, cho người lớn chúng ta cảm xúc gì không?

Không phải là những ngọn nến lung linh tưởng nhớ một huyền thoại, mà chính là huyền thoại đó luôn lung linh trong trái tim những người Việt trẻ, những trái tim, những tâm hồn non trẻ, sục sôi nhiệt huyết, đang rất cần những giá trị tinh thần cao đẹp, trong sáng, thực sự vì nước, vì dân hướng đạo cho họ sống, đi qua những tháng năm gian khổ này, để xây dựng một nước Việt không hổ thẹn với quá khứ lịch sử. Không hổ thẹn với các thế hệ tiền nhân, và ngay cả với cả vị Tướng huyền thoại vừa vĩnh biệt đời sống.

Hình ảnh cảm động đó, còn là một minh chứng sinh động, "nói" với nhân gian, rằng những giá trị trí tuệ, nhân cách cao đẹp vì lợi ích đất nước, luôn bất biến trong sự trân quý của những người Việt trẻ. Với họ, đó còn là "tay vịn" để họ có thể sống có ích, mà không thất vọng trước thực tại xã hội.

Bởi nếu nhìn vào đời sống vật chất của người Việt so với hơn 20 năm Đổi mới trước đây, nhất là các trung tâm đô thị lớn, các thành phố... , phải nói đó là một bước tiến đáng kể. Nhưng nếu nhìn vào đời sống tinh thần, tâm hồn, tình cảm, vào những thang bậc giá trị tinh thần xã hội, người Việt chúng ta "giàu có" hơn những gì? Nhất là khi nhìn về hành trình hội nhập với văn minh, văn hóa nhân loại còn xa ngái.

Sự hẫng hụt của xã hội, của người Việt chúng ta những ngày này, không phải chỉ là sự khuất bóng một nhân vật lịch sử của đất nước, mà còn là sự thiếu vắng của những giá trị tinh thần, văn hóa cao đẹp, đem lại niềm kiêu hãnh vốn có của người Việt, để nước Việt tiếp tục vượt qua và chiến thắng trong cuộc chiến chống "nội xâm", như đã từng chiến thắng các loại giặc ngoại xâm?

Ai sẽ trả lời cho người Việt, nếu không phải tự chúng ta? Tự mỗi người Việt, từ quan chức cho đến mỗi thường dân, phải tìm được câu trả lời, ngay bây giờ và trong những tháng năm sắp tới?

Đó mới chính là sự tiễn biệt xứng đáng với một huyền thoại vừa khuất bóng dương gian...

Theo Tuan VietNamNet

NGƯỜI LÀ BẬC THÁNH NHÂN


Nguyễn Như Phong

Từ xưa, người ta đã nói chỉ có bậc Thánh Nhân mới có thể cảm hóa được mọi người.

Trong chiết tự chữ Thánh thì trên chữ Vương là "vua" là chữ "nhĩ" và chữ "khẩu" - nghĩa là Thánh còn hơn cả vua là biết nghe và có lời nói để dân theo. Xưa nay, vua thì nhiều lắm nhưng có mấy ai được nhân dân tôn là "Thánh".

Ngày nay lãnh đạo thì cũng có nhiều, nhưng lãnh tụ thì xem ra ngày càng hiếm và bậc Thánh Nhân thì lại càng ít.

Trong lịch sử, đã có nhiều sự ra đi của một cá nhân mà tác động đến cả xã hội.

Nhưng những người mà sự ra đi làm cho cả dân tộc xích lại gần nhau, làm cho mỗi người đều cảm thấy rằng mình cần phải sống tử tế hơn để không làm buồn lòng người đã mất, thì lịch sử cận đại Việt Nam chỉ có hai người là Bác Hồ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp.


                  Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp

Trong những ngày này ở Hà Nội, dòng người tưởng như bất tận lặng lẽ chờ đợi đến lượt vào viếng Đại tướng.

Để được bái biệt Đại tướng, nhiều người đã đi từ 2, 3 giờ sáng, nhiều người đứng hàng tiếng đồng hồ dưới cái nắng gay gắt... Đến tiễn biệt Đại tướng, có từ các cháu chưa đến tuổi cắp sách tới trường tới các cụ già sắp gần đất xa trời.

Các đội viên thanh niên tình nguyện đưa từng cốc nước cho các cụ, các ông, các bà, rồi đi phát mũ tai bèo, quạt giấy cho mọi người; mang bánh mỳ đến đãi bà con. Và một cảnh tượng thật kỳ lạ, ấy là những người đã viếng Đại tướng xong, khi quay ra, thì để lại chiếc quạt cho người sau che nắng...

Dòng người đến viếng Đại tướng mà không ai bảo ai, không phải có vận động, chỉ định đi viếng... Mọi người đến viếng Đại tướng bằng tất cả tấm lòng kính yêu của mình.

Dòng người viếng Đại tướng không chen lấn, xô đẩy, không ồn ào…

Quả thực đây là cảnh tượng rất hiếm có ở Hà Nội, đặc biệt là từ khi chúng ta bắt đầu công cuộc đổi mới nền kinh tế, xây dựng đất nước.

Bao nhiêu năm qua, người Hà Nội có thói quen rất xấu là chen lấn, xô đẩy, coi nhờn luật pháp… Cái nếp rất xấu này có từ thời bao cấp, và "di chứng" của nó vẫn còn đến bây giờ, căn bệnh "chen lấn" này xem ra lại ngày càng trầm trọng.

Tiếng là "người Hà Nội thanh lịch" nhưng rõ ràng trật tự giao thông của Hà Nội xếp vào loại kém nhất cả nước, trật tự đô thị cũng vào nhóm bét nhất nước, thanh thiếu niên chửi càn, chửi bậy, hỗn láo có lẽ cũng nhiều nhất cả nước...

Người ta cứ nói Hà Nội thanh lịch, nhưng điều đó đã là xa vời lắm rồi. Buồn thế đấy!

Ấy vậy mà từ hôm Đại tướng mất, trật tự giao thông ở Hà Nội bỗng nhiên tốt hơn hẳn: Số vụ tai nạn giao thông giảm đến 2/3, các vụ việc liên quan đến trật tự an toàn xã hội và phạm pháp hình sự cũng giảm đáng kể.

Người ta nhận thấy rằng, bỗng dưng người Hà Nội lại tử tế hơn, điềm tĩnh hơn.

Thế mới biết, sức cảm hóa của Đại tướng to lớn đến nhường nào.


Đại tướng Võ Nguyên Giáp về thăm khu Sở chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ tại Mường Phăng lần đầu tiên sau 40 năm.

Mấy năm nay, sức khỏe Đại tướng yếu dần theo quy luật Sinh - Lão - Bệnh - Tử. Biết Đại tướng yếu, và cứ mỗi dịp đến ngày lễ, khi nhắc đến Đại tướng, ai cũng cầu mong cho Đại tướng sống lâu muôn tuổi.

Nhiều năm nay, Đại tướng vẫn là chỗ dựa tinh thần cho quân và dân ta.

Đại tướng mất, nước nhà mất đi một cây cột cái, còn lực lượng vũ trang mất đi người Anh Cả.

Từ lâu nay, chúng ta luôn nói Chủ tịch Hồ Chí Minh là "Người Cha của các lực lượng vũ trang", còn Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là "người Anh Cả". Cha ông ta có câu rằng "Làm anh khó lắm ai ơi". Bây giờ càng ngẫm, càng thấy sao mà đúng thế và Đại tướng đúng là người Anh Cả.

Với một cá nhân, có lẽ chỉ khi người đó về cõi vĩnh hằng mới đánh giá được một cách chính xác nhất công lao, đức độ và tầm ảnh hưởng của một cá nhân đối với dân tộc.

Có rất nhiều người giỏi, có những đóng góp to lớn cho đất nước, cho dân tộc, nhưng họ chỉ là những nhà lãnh đạo giỏi, chứ không phải là lãnh tụ, và càng không được người dân phong Thánh trong lòng mình.

Người dân thể hiện lòng kính yêu Đại tướng không chỉ là kính yêu một con người vĩ đại, có tài năng thiên bẩm, có công lao to lớn đối với đất nước, dân tộc, mà vượt lên tất cả là kính yêu một nhân cách lớn và một con người có đức độ hiếm có.

Trong những ngày này, nhiều tờ báo cũng đã nói về một số năm tháng Đại tướng không được như ý, đặc biệt là giai đoạn Đại tướng được phân công phụ trách Dân số và Kế hoạch hóa gia đình. Thời ấy, cũng đã có câu vè chua chát về việc này.

Ngày ấy, tôi là người lính, nhưng không thể hiểu nổi tại sao một vị Đại tướng cầm quân tên tuổi lẫy lừng khắp năm châu và ở đâu cũng nói đến cụm từ "Việt Nam - Hồ Chí Minh - Võ Nguyên Giáp" nay lại phải đi làm một công việc mà không thể nói rằng xứng với một Đại tướng.

Nói công việc ấy "tầm thường" thì cũng chẳng phải, nhưng giao công việc ấy cho một Đại tướng thì thật là "xem ra ngậm đắng nuốt cay thế nào"?

Xưa có câu "điểu tận cung tàng" nghĩa là chim hết thì cung bị xếp xó, và vận vào công việc mới của Đại tướng ngày ấy mới thấy đúng làm sao. Vậy mà, Đại tướng vẫn lao vào công việc với tất cả trách nhiệm của mình. Trong tâm niệm của Đại tướng luôn luôn có lời dạy của Bác Hồ: "Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua…" và phải biết "Dĩ công vi thượng". Ngày xưa, khi cầm quân đánh giặc, Đại tướng đã theo lời dạy này và bây giờ khi sang một công việc không liên quan gì đến binh nghiệp nữa, Đại tướng vẫn thực hiện theo đúng lời dạy của Bác.

Lại nữa, vào năm 1984, khi Kỷ niệm 30 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, chẳng hiểu vì lý do gì mà người ta không mời Đại tướng lên Điện Biên dự lễ kỷ niệm. Đại tướng phải lên thăm lại chiến trường xưa và bà con Tây Bắc với tư cách cá nhân. Rồi trong các hội thảo tuyên truyền về Chiến thắng Điện Biên, người ta còn "ngại" không dám nói về vai trò của Đại tướng...

Có một thời kỳ, khu vườn ở 30 Hoàng Diệu nom như vườn hoang, với lá cây rụng đầy, ít người quét dọn và những bức tường cỏ mọc rêu phong.

Không thể nói rằng những năm tháng đó đối với Đại tướng là "thoải mái", và càng không thể nói rằng công việc mới mà Đại tướng được giao là vừa ý đối với Người... Nhưng tuyệt nhiên không có nửa lời bất đắc chí, không có một lời than thân, trách phận, không có nửa lời trách cứ... Thế mới biết, sức chịu đựng của Đại tướng thật phi thường và đúng là chỉ có bậc Thánh Nhân mới chịu được như thế.

Trong những năm tháng ấy, Đại tướng đã tập Thiền. Nhưng nếu như ai đó tập tu Thiền để trốn tránh sự đời, thì Đại tướng tập Thiền là để giữ cho tâm tỉnh táo, tập trung, nhìn thế giới hiện hữu rõ ràng và trau dồi tấm lòng nhân đạo, biết mình là ai và ở đâu.

Trong bối cảnh kinh tế nước nhà đang có những khó khăn, lòng dân đang ly tán, niềm tin của người dân vào Đảng giảm sút, những nguy cơ liên quan đến sự tồn vong của Đảng đã được nhìn nhận... Nhưng người dân vẫn đoàn kết một lòng xung quanh Đại tướng.

Người ra đi nhưng đã làm cho cả dân tộc xích lại gần nhau và nâng cao tính tự tôn.

Chỉ có bậc Thánh nhân mới có thể làm được điều đó.

Nhiều năm nay, Đảng ta đã mở cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Cuộc vận động đã có những tác động tích cực, dù còn rất khiêm tốn vào xã hội.

Và bây giờ chúng ta đã thấy sức cảm hóa của Đại tướng lớn đến chừng nào, tài năng và đức độ của Đại tướng vĩ đại đến như vậy.

Nên chăng, phải thêm vào là "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp"?!

TRUYỀN THỐNG HIẾU HỌC KHOA CỬ Ở QUẢNG BÌNH

Ths-GVC-ĐHSP. Trần Hoàng


1. Với bề dày một ngàn năm lịch sử (tính từ năm 1069 đến nay), vùng đất Quảng Bình, vùng đất mặt hướng ra biển Đông bao la, lưng tựa vào giải Trường Sơn hùng vĩ, được người cả nước coi là một trong những vùng đất “địa linh nhân kiệt” của Tổ quốc. Từ thời kỳ trung đại đến thời kỳ cận, hiện đại, thời kỳ nào trên đất Quảng Bình cũng xuất hiện các bậc hiền tài, các danh tướng, lương thần trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, quân sự, giáo dục, y tế, văn học nghệ thuật v.v… Sách Ô châu cận lục của TS Dương Văn An trong tiểu mục “Môn nhân vật” đã ghi tên 44 vị (cả nam lẫn nữ) người các châu huyện: Khang Lộc, Lệ Thủy, Bố Chính… nổi tiếng về tài văn, võ, về hiền đức… và sự đóng góp to lớn của họ cho quê hương, đất nước kể từ thời nhà Mạc (thế kỷ XVI) trở về trước. Đến triều Nguyễn, sách Đại Nam nhất thống chí trong phần nói về các nhân vật có đức, có tài ở Quảng Bình đều nêu rõ tên họ và công trạng của 19 người thuộc triều Lê và 44 người thuộc triều Nguyễn. Dĩ nhiên, những người được ghi trong 2 cuốn sách trên, không phải tất cả đều thuộc hàng danh nhân của đất nước (theo cách hiểu chặt chẽ của khái niệm này). Mặt khác các tác giả của 2 cuốn sách trên, do sự hạn chế nhiều mặt của thời đại, ví như quan điểm tư tưởng, cách nhìn nhận, đánh giá về con người, đã không đưa vào mục “Nhân vật chí” trong sách của họ không ít người đức lớn, tài cao và có nhiều đóng góp trong công cuộc xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Dù vậy, chi qua 2 tập sách Ô châu cận lục và Đại Nam nhất thống chí, 2 cuốn sách địa chí có giá trị ra đời sớm ở nước ta, chúng ta cũng thấy được trên vùng đất Quảng Bình, cách đây hàng mấy trăm năm cũng đã có rất nhiều bậc hiền tài, một phần rất đáng trân trọng của “nguyên khí quốc gia”. Vậy, điều gì ở Quảng Bình, một vùng quê, đất không rộng, người không đông, và có nhiều năm tháng mù mịt khói lửa chiến tranh… lại có thể sản sinh ra nhiều người con ưu tú, nhiều danh nhân cho đất nước? Chúng ta có thể trả lời câu hỏi này bằng nhiều cách khác nhau, nhưng theo chúng tôi, truyền thống hiếu học và khoa cử là một trong những cơ sở (nói cách khác là nền tảng) quan trọng hình thành, bồi dưỡng và phát triển nhân tài trên đất Quảng Bình.

2.1. Khi nói đến các yếu tố tạo nên các thiên tài, các nhân tài, người ta thường nói tới yếu tố thiên phú. Điều đó hoàn toàn đúng. Nhưng yếu tố thiên phú ấy chỉ trở thành hiện thực khi con người được sự quan tâm chăm lo bồi dưỡng, giáo dục của gia đình, nhà trường, xã hội và bản thân người đó có sự nỗ lực, sự phấn đấu cao trong tu dưỡng, trong học hành…

Quảng Bình, so với nhiều tỉnh thành khác trên đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn, vất vả trong sản xuất, làm ăn và sinh sống. Trừ 2 huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh đất đai khá màu mỡ, các huyện còn lại ruộng đồng phần lớn cằn khô, nhỏ hẹp, manh mún, trước đây chỉ trồng được một vụ lúa, theo lối gieo thẳng (vãi) vì ruộng sâu rất ít. Ven biển thì động cát nhấp nhô như núi đồi. Hàng năm, cát theo gió từ ven biển lấn sâu vào đồng bằng, làm mất đi không ít đất trồng lúa, trồng khoai.

Huyện nào ở Quảng Bình cũng có sông, có khe suối, nhưng sông suối thường hay có lũ lớn, lụt to, lại bị nước mặn từ cửa biển dồn vào nội địa đến hàng cây số, Thời tiết, khí hậu vùng đất từ đèo Ngang trở vô rất khắc nghiệt bởi gió Lào và bão to, giông lớn.

Gió Nam thổi kiệt bảy ngày

Sắn khoai chẳng có, đi vay chẳng còn.

Đất đai, sông ngòi, biển cả, thời tiết, khí hậu… là những nhân tố rất quan trọng có sự tác động lớn đến công việc làm ăn và cuộc sống hàng ngày của con người. Ở Quảng Bình việc làm ra hạt lúa, củ khoai, bắt con tôm, con cá v.v… không phải là việc dễ dàng…

Thiên nhiên khó khăn là vậy, đời sống lịch sử- xã hội của cư dân trên vùng đất này mấy trăm năm qua cũng chẳng mấy thuận lợi, dễ dàng. Hết chiến tranh Trịnh Nguyễn lại đến kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, thời kỳ nào các làng quê, phường phố ở Quảng Bình cũng phải gánh chịu hàng trăm tấn bom đạn của kẻ thù. Đói nghèo, chết chóc, thương tật, khổ đau là mối đe dọa thường xuyên đối với cư dân sống ở các làng quê từ vùng rừng núi sát biên giới Việt Lào, đến các vùng ruộng sâu, ruộng cạn nằm ven biển, ven sông. Do vậy, việc học hành, thi cử của con em các gia đình ở vùng đất này không hề dễ dàng chút nào. Hơn nữa, trước năm 1945, nhất là trong thời kỳ phong kiến, những trường học lớn, những kỳ thi quốc gia đều nằm ở kinh đô. Con dân Quảng Bình muốn được học hành đến nơi đến chốn, muốn có vốn kiến thức dồi dào và có học vị cao phải cơm đùm, cơm nắm, trèo đèo, vượt suối ra tận Hà Nội, vào tận Huế. Chúng tôi nói hơi dài dòng về những điều trên là để nhấn mạnh, để khẳng định thêm những nét đáng quý, đáng trọng trong việc học hành, thi cử của các thế hệ thanh, thiếu niên và cả trung niên nữa ở Quảng Bình.

Thuở xưa, các bậc ông bà, cha mẹ cho con đi học là nhằm 2 mục đích:

- Có chữ để làm người.

- Có bằng cấp để lập thân, lập nghiệp, lập công, lập danh.

Thời phong kiến, việc học hành của con em ở các làng quê chủ yếu là do dân tự lo liệu. Các gia đình tổ chức lớp, mời thầy về dạy cho con em ngay tại nhà. Các ông đồ làm nghề dạy học được dân các làng, các gia đình góp tiền, góp gạo nuôi dưỡng. Trong những năm tháng đó, không ít ông đồ xứ Nghệ, xứ Thanh đã vượt đèo Ngang vào châu Bố Chính làm nghề gõ đầu trẻ. Hẳn là vì vậy mà danh xưng “ông đồ xứ Nghệ” được người Quảng Bình rất tôn kính, rất quý trọng. Cùng với các ông đồ từ các nơi khác đến, nhiều ông tú, ông cử, ông nghè quê gốc ở Quảng Bình cũng rất chăm lo cho việc học hành của con cháu. Ông Đỗ Đức Huy, người làng Cảnh Dương, khoa Bính Tý đời Lê Hiển Tông (1756) đỗ sinh đồ khi trở về làng đã mở trường dạy học. Dân làng quý trọng ông gọi ông là ông quận và ông đã trở thành nhân vật truyền thuyết trong câu chuyện dân gian: “Ăn mắm Hàm hương nhớ thương ông quận”. Khi người Pháp đề ra chủ trương thay đổi việc học hành, khoa cử trên đất Đông Dương, thì từ đầu thế kỷ 20 trên đất Quảng Bình đã có một số trường học được thành lập với sự đóng góp rất nhiệt tình, rất to lớn về công sức, về tiền bạc của nhân dân như ở các làng xã Quảng Xá, Xuân Dục, Đồng Hới, Cảnh Dương, Thổ Ngõa, Ba Đồn, Lệ Sơn v.v… 60% các thôn xã có Hương trường cho các cháu đồng ấu (vỡ lòng) đến học. Triều Nguyễn đã gia phong cho một số người hàm Cửu phẩm để ghi nhớ công sức đóng góp của họ cho việc mở mang, xây dựng trường học như các ông Cửu Vẹt, Cửu Mỹ, Cửu Lãng ở Quảng Trạch. Người làng Cảnh Dương, gần 100 năm nay luôn luôn tôn vinh và biết ơn cụ Đỗ Phú Túc (người làng thường gọi cụ bằng một danh xưng tôn kính là cụ Thượng), một vị tổng đốc khi về quê an nghỉ tuổi già đã có công lớn trong việc vận động thành lập Trường Tiểu học Pháp- Việt Ròn, một trong ba trường tiểu học đầu tiên ở Quảng Bình trước năm 1945. Còn ở Văn La (Quảng Ninh), từ đời này qua đời khác, bà con trong thôn, trong xã không mấy ai là không nhớ đến Thượng thư Hoàng Kim Xán và bài văn bia Hoàng thi gia huấn của cụ. Trong bài văn bia này cụ đã dành rất nhiều dòng tâm huyết để khuyên con cháu “giữ lấy đạo hiếu, trau dồi đức hạnh, cần mẫn học hành…” (1)

Một số điều mà chúng tôi vừa trình bày ở các trang viết trên phần nào cũng đã nói lên được sự quan tâm đối với giáo dục và lòng mong muốn cho con em có trường, có lớp để học hành đến nơi, đến chốn của nhân dân các làng xã, phường phố. Không những vậy, các gia đình, gia tộc, các địa phương đều có những việc làm rất cụ thể, rất thiết thực trong công tác khuyến học như cấp tiền bạc cho các học sinh nghèo học giỏi, tổ chức trọng thể Lễ vinh quy bái tổ và đón rước chu đáo những người đỗ đạt cao khi họ từ trường thi trở về làng…

Hương ước làng Cảnh Dương (một bản Hương ước được soạn từ năm Quý Mùi, đời vua Lê Cảnh Hưng thứ 28- 1768), điều 20 trong mục “Khoán lệ cựu đinh” ghi rõ:

“Ai thi hương đỗ thủ khoa làng thưởng tiền 5 quan, thi trúng giám sinh thì làng đem đủ heo, rượu đến tận núi Chè, thôn Nam Khê rước về…” (2)

Để tôn vinh những người đạt thành quả cao trong học hành, thi cử, nhiều làng xã trong tỉnh đã dựng những tấm bia đá lớn ghi rõ tên tuổi và sự nghiệp của các vị tiến sỹ, phó bảng, cử nhân và cả tú tài nữa. Đến nay, các làng Đại Phong, Tuy Lộc, La Hà, Lý Hòa, Cảnh Dương… vẫn còn giữ được các tấm bia này dù thời gian và mưa nắng có làm chúng mờ đi nhiều nét chữ. Đề cao Nho học, một số làng xã đã xây Đình Thánh, xây Văn Miếu để thờ Đức Khổng Tử và các danh nho tiêu biểu của 2 nước Trung Quốc, Việt Nam, đồng thời cũng là nơi để Hội Văn của làng nhóm họp, bình thơ, bình văn… mỗi khi thu về, xuân đến. Văn Miếu của tỉnh, với quy mô khá lớn được tạo lập từ năm Gia Long thứ 17 (1819).

2.2. Sự hiếu học của các thế hệ học sinh, sự quan tâm đối với công tác giáo dục của các gia đình, gia tộc, của các cấp chính quyền từ phủ huyện đến làng xã tất yếu sẽ dẫn đến các kết quả tốt đẹp trong việc bồi dưỡng trí lực, đào tạo nhân tài cho quê hương, đất nước.

Thời phong kiến, dưới các triều Trần, Lê, Mạc, Quảng Bình đã có 5 vị đỗ đại khoa. Đó là Trạng nguyên Trương Xán (khoa thi năm 1256 đời Trần Thái Tông) và các vị tiến sỹ: Dương Văn An, Lê Đa Năng, Nguyễn Trạch, Phan Đại Kháng.

Qua triều Nguyễn, con em Quảng Bình có nhiều điều kiện thuận lợi hơn để học hành, thi cử. Vì vậy số người đạt học vị từ tú tài đến cử nhân, tiến sỹ rất nhiều và vượt xa các thời kỳ trước. Tính từ năm Minh Mạng thứ 3 (1822) đến năm Khải Định thứ 4 (1919), trong vòng gần 100 năm, triều Nguyễn đã tổ chức 40 kỳ thi hội. Trong các kỳ thi này, mỗi kỳ có số người dự thi nhiều nhất là hơn 300 người, ít nhất cũng hơn 120 thí sinh, nhưng số người lấy đỗ không bao giờ đến con số 20. Thậm chí, có kỳ thi chỉ có ba, bốn người giành được học vị tiến sỹ. Trong điều kiện thi cử chặt chẽ và ngặt nghèo như vậy, Quảng Bình vẫn là một trong những tỉnh có số người đậu đại khoa nhiều nhất với 22 tiến sỹ, 19 phó bảng và 3 hoàng giáp; ngoài ra tỉnh còn có 270 người đậu cử nhân và hàng trăm người đậu tú tài trong các kỳ thi hương (3). Không chỉ ở vùng đồng bằng và đô thị mới có người đỗ cao, ngay cả miền núi Tuyên Hóa, ở làng Thanh Thủy cũng có người đậu Hoàng giáp, các làng Lệ Sơn, Thi Lễ, Lâm Lang, Cương Để, Trừng Yên, Cương Giám, Lâm Xuân có từ 1 đến 11 người đỗ cử nhân. Có kỳ thi hội chỉ lấy đỗ tiến sỹ 10 người, thì 3 người là con dân Quảng Bình, đó là kỳ thi năm Tân Hợi (1851), đời Tự Đức thứ 4. Các thí sinh đạt học vị tiến sỹ, phó bảng, cử nhân, phần lớn đều ở lứa tuổi trên dưới 30, cá biệt có người đỗ tiến sỹ khi mới 22, 23 tuổi.

Một điều rất đáng trân trọng là non nước Quảng Bình đã tạo ra không ít làng xã và gia đình, từ bao đời nay đã được nhân dân vinh danh là: “làng khoa bảng”, “gia đình khoa bảng”.

- Quan La Hà, nhà Văn Phú.
- Việc quan họ Hoàng, việc làng họ Đỗ.

(2 họ lớn ở làng Văn La- Quảng Ninh).

- Lại là hương hội khoa trường
Sơn, Hà, Cảnh, Thổ xưa thường chiếm ngôi.

Các câu tục ngữ, ca dao trên là những câu ngợi khen của nhân dân đối với các gia đình, các làng xã có bề dày, có thành tích lớn trong học hành, thi cử và nhiều đóng góp cho quê hương, đất nước. Lịch sử khoa cử triều Nguyễn là một minh chứng cụ thể cho những điều được nói đến trong các câu tục ngữ, ca dao trên. Xin được nêu một vài dẫn chứng:

- Làng La Hà có 6 tiến sỹ, 32 cử nhân.
- Làng Lệ Sơn 11 cử nhân.
- Làng Lý Hòa có 2 tiến sỹ, 2 phó bảng, 1 hoàng giáp, và 9 cử nhân.
- Làng Cao Lao có 2 phó bảng, 22 cử nhân.
- Làng Cảnh Dương có 2 tiến sỹ, 14 cử nhân.
- Làng Thổ Ngõa có 1 phó bảng, 15 cử nhân.
- Làng Lộc Điền có 2 tiến sỹ, 5 cử nhân.
- Làng An Xá có 2 tiến sỹ (4).

Làng xã có nhiều người học rộng, đỗ cao, một phần cũng nhờ có các gia đình, gia tộc có truyền thống thi thư. Chúng ta có thể kể đến một số dòng họ nổi tiếng xưa nay như: Dòng họ Hoàng ở Trung Bính, dòng họ Tạ, họ Trần Văn ở La Hà, dòng họ Nguyễn Duy ở Lý Hòa, dòng họ Lương, họ Lê ở Lệ Sơn, dòng họ Hoàng ở Văn La, dòng họ Nguyễn Đăng, dòng họ Nguyễn Hữu ở Lệ Thủy, Quảng Ninh v.v…

Trong một số kỳ thi hương, thi hội thời Nguyễn có những gia đình, dòng họ cha con, anh em, bác cháu, thầy trò… cùng đỗ. Đây là một điều hết sức thú vị.

Sau năm 1919, các kỳ thi chữ Hán không còn nữa. Thời Pháp thuộc và thời kháng chiến chống Pháp (1946- 1954), Quảng Bình chưa có các trường cấp 3 (trung học phổ thông) và cuộc sống của nhân dân vẫn vô cùng khó khăn. Nhưng không phải vì vậy mà học sinh Quảng Bình nhụt chí học hành. Nhiều người đã vô tận Huế, ra tận Vinh, Hà Nội và ra cả nước ngoài để học hành, thi cử. Một tầng lớp trí thức tân học ra đời thay cho các bậc túc nho thuở xưa. Các dòng họ, các làng khoa bảng vẫn phát huy được truyền thống tốt đẹp trong việc giáo dục, bồi dưỡng, phát triển nhiều nhân tài cho đất nước trên tất cả các lĩnh vực từ chính trị, quân sự đến kinh tế, từ văn học nghệ thuật đến y tế, giáo dục. Những làng như Lệ Sơn, Cảnh Dương, An Xá, Võ Ninh… có hàng trăm người làm nghề dạy học, nghề thầy thuốc. Các vị tướng tài của quân đội nhân dân Việt Nam như Võ Nguyên Giáp, Hoàng Sâm, Lê Văn Tri, Đồng Sỹ Nguyên đều là những học sinh khá giỏi từ lúc họ còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhà ngôn ngữ học Hoàng Tuệ, giáo sư địa lý học hàng đầu Hoàng Thiếu Sơn, phó tiến sỹ thủy điện lớp đầu tiên của Việt Nam Nguyễn Đình Tranh, giáo sư nông học Trần Đình Miên, các giáo sư văn học nước ngoài Lương Duy Trung, Lương Duy Thứ, các nhạc sỹ họ Dương ở làng Quảng Xá v.v… tất cả đều là con cháu của các gia đình, các dòng họ xưa nay luôn quan tâm và tạo điều kiện tốt nhất cho con cháu học hành để nối nghiệp cha anh.

3. Quảng Bình, giải đất hẹp của miền Trung trong 10 thế kỷ qua, thời kỳ nào cũng đều có những bậc hiền nhân làm vẻ vang cho quê hương, đất nước. Họ là những người tài cao, đức trọng. Nhiều người trong số họ khi mất đã được cư dân các làng xã suy tôn thành thần thánh và lập đền miếu phụng thờ. Những bậc danh nhân được cộng đồng tôn vinh không ai là không trải qua những tháng ngày được học tập, tôi rèn ở trường lớp, ở trong thực tiễn cuộc sống. Truyền thống học hành, khoa cử, theo chúng tôi là một nhân tố, một cơ sở để những người có trí tuệ, có nhân cách trở thành các bậc danh nhân. Chính vì vậy, việc chăm lo phát triển giáo dục từ bậc mầm non đến bậc đại học và trên đại học là một công việc đã và đang được các cấp lãnh đạo Đảng, chính quyền, các đoàn thể, nhân dân và toàn xã hội quan tâm. Đầu tư nhiều và mạnh mẽ cho giáo dục, nhất định quê hương ta, đất nước ta sẽ ngày càng có nhiều bậc hiền tài , “nguyên khí” của nước nhà sẽ ngày một hưng thịnh.

VÕ XUÂN CẨN - VỊ QUAN "TỨ TRIỀU NGUYÊN LÃO"


Lê Thị Hoài Hương 

Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn sinh ngày 14/11 năm Nhâm Thìn (1772), ở làng Hoà Luật Nam (xã Cam Thuỷ ngày nay). Ông mất tháng 4 năm 1852. Theo gia phả các dòng họ ở địa phương ghi rằng tổ tiên của dân làng Hoà Luật chính quê ở làng Lợi Luật- Thanh Hoá vào đây lập làng từ những năm giữa thế kỷ XVI.

Năm Mậu Ngọ 1558 đời vua Anh Tông, khi Đoan Quận Công Nguyễn Hoàng vào trấn giữ xứ Thuận Hóa tạo nên một thế lực mới của Chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Bấy giờ có những thập niên người dân Đàng Ngoài- "đồng hương với 

Chúa Tiên" rủ nhau vào vùng đất cũ Chiêm Thành để sinh cơ lập nghiệp. Ông Võ Xuân Cuộc thuộc dòng dỏi khoa bảng ở Thanh Hoá cũng nằm trong đoàn quân ấy đưa theo 7 dòng họ (Võ, Ngô Văn, Ngô Quang, Trần Như, Trần Quang, Nguyễn, Lê) vào khai khản lập làng Hoà Luật. Ông cho rằng đây là nơi trạch địa có thể an cư lập nghiệp.

Người dân làng Hoà Luật có nguồn gốc từ Thanh Hoá vốn mang trong mình tâm trạng của người đi mở nước, họ luôn vươn lên chống lại kẻ thù áp bức, kẻ thù xâm lược, kẻ thù thiên nhiên để chinh phục một vùng đất mới, lạp nên cơ nghiệp cho chính cộng đồng làng xã mình.Chính tinh thân ấy đã tạo nên tính cách trung kiên, quật cường của người dân Hoà Luật trong việc chống áp bức cường quyền. Cư dân ở đây cũng như mọi vùng quê khác sống trong làng xóm nông nghiệp, mỗi người dân gắn bó với nhau trong quan hệ làng xóm, họ hàng. Và trong quá trình lao động sản xuất đã góp phần tạo nên những đặc tính người Hoà Luật là cần cù, chịu thương, chịu khó, luôn đấu tranh vượt qua mọi khó khăn trở ngại để tồn tại, không bi quan, chán nản, không chịu luồn cúi như trong Ô châu cận lục của Dương Văn An có viết: "Lại Xá có lệ giúp nhau, Hoà Luật chẳng quen chịu nhục"

Người Hoà Luật còn là những người hiếu học, có chí tiến thủ. Mảnh đất này đã sinh ra nhiều võ tướng, nhiều vị anh hùng dân tộc. Thời nào làng Hoà Luật cũng có người trí thức, đỗ đạt làm quan to đúng như câu nói: "Hoàng Giang phu tử, làng Hoà Trạng nguyên" mà người dân ở đây thường lưu truyền.

Võ Xuân Cẩn ở một vùng quê giàu truyền thống yêu nước, truyền thống hiếu học. Từ thuở thiếu thời Võ Xuân Cẩn nổi tiếng là người chăm học, thông minh bởi Ông đã kế thừa từ một gia đình, dòng họ có truyền thống khoa bảng, nhiều người được ra làm quan: Võ Đình Phượng đỗ cử nhân làm ký lục Quảng Bình, được phong tặng "Thái thường tự khanh"; Võ Xuân Nồng làm chức ký lục ở Quảng Nam có công đưa Duệ Tông Thiếu Định hoàng đế (tức chúa Nguyễn Phúc Thuần) vào Nam, được phong "Chính tự phượng khanh"; Khâm sai tham mưu Võ Hữu Sở vì mắng quân giặc trong lúc bị bắt, ông đã tuẫn tiết, được phong tặng "tá lý công thần Chánh trị lang" và được liệt thờ trong đền Trung nghĩa...

Những ảnh hưởng của gia đình, dòng họ đã giúp Võ Xuân Cẩn sớm xác định được con đường đi của mình với quan niệm làm quan để gánh vác việc đời, thi hành việc nghĩa với mục đích cuối cùng là phụng sự nhân dân. Chính vì thế mà trong suốt cuộc đời làm quan của mình (1802-1852), Võ Xuân Cẩn đã làm rất nhiều việc, xứng đáng được lịch sử ghi nhận.

1. Võ Xuân Cẩn đối với việc xây dựng và bảo vệ đất nước:

Sinh ra trong buổi nhuận triều, Võ Xuân Cẩn đậu Công sĩ (ngang cử nhân) dưới thời Chúa Nguyễn nhưng không ra làm quan. Năm Tân Dậu (1801), Đức thế tổ Cao Hoàng đế (Nguyễn Ánh – Gia Long) khôi phục kinh đô Phú Xuân. Vua Gia Long là một ông vua tài trí, khôn ngoan nên khi lên ngôi nhằm củng cố vị trí của mình và xây dựng đất nước, ông đã chủ trương thu dụng người hiền tài. Năm 1802, Gia Long đã mời Võ Xuân Cẩn vào làm ở Viện Hàn Lâm. Trong cuộc đời làm quan 50 năm (1802-1852), trải qua 4 triều vua (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), Võ Xuân Cẩn đã kinh qua nhiều chức vụ quan trọng bậc nhất trong triều (Thượng thư Bộ hình, Thượng thư Bộ Công; Hàn Lâm Viện học sĩ; Đông các Đại học sĩ; quản lý các việc Bộ Lại; kiêm lãnh quốc sử quán; Tổng tài quốc sử quán...) hay ở ngoài các địa phương như: Tham biện hiệp trấn Hưng Hoá, Sơn Nam, Hoài Đức, Nghệ An; Thị lang biện lý Bắc Thành (Hà Nội); Hình tào ở Gia Định; Tổng đốc tỉnh Bình – Phú... Dù ở cương vị nào, Võ Xuân Cẩn cũng tỏ ra là vị quan có học vấn sâu rộng, lĩnh lãm, cương trực, thẳng thắn, thương dân, tận tuỵ với công việc, ông có khả năng làm cho đất nước thái hoà.

Năm Gia Long thứ 2 (1803), Võ Xuân Cẩn được cử làm tham biện hiệp trấn Hưng Hoá, rồi tiếp đó làm Cai bạ ở Bình Định.

Năm 1820 Minh Mạng lên ngôi, Võ Xuân Cẩn được phong làm Hiệp trấn Sơn Nam. Sau đó, được triều đình triệu về kinh làm Tả tham tri Bộ Hình.

Tháng giêng năm Minh Mạng thứ năm (1824) Nghệ An xảy ra hạn đói nặng, vua khiến quan Tham tri Bộ Hình là Võ Xuân Cẩn , thuỷ quân là Hồ Tấn Hiệu, Thiêm sự là Nguyễn Công Đàm chia đi phát chẩn đói ở Nghệ An.

Theo vua Minh Mạng ở các địa phương phát chẩn cứ trai, gái, già, trẻ đều được cấp một quan tiền và sáu bát gạo, trẻ nhỏ thì được cấp một nửa. Nhưng Võ Xuân Cẩn chỉ cấp ít cho những người có thân thể tráng kiện, còn trẻ nhỏ có vẻ yếu đuối, xanh xao thì được chẩn cấp nhiều. Trong khi phát chẩn “Bọn dư đảng đã trà trộn vào công trường phát chẩn. Theo Võ Xuân Cẩn việc bắt chúng không khó khăn gì, nhưng trừng trị trộm cướp triều đình đã có chính sách lo gì không có kế hoạch, hà tất phải nhân việc chẩn cấp mà bắt bớ làm cho tai mắt của nhân dân phải kinh hãi”.

Khi đi phát chẩn ở Nghệ An về, Võ Xuân Cẩn đã vào chầu vua để chịu tội. Nhưng vua Minh Mạng – một ông vua luôn cho mình là “chính đại quang minh” đã phán rằng “Nếu có lợi cho dân mà tự chuyên là việc nên làm không có tội gì”. Và khi nói chuyện với Miên Thẩm, vua Minh Mạng đã khen “Võ Xuân Cẩn khá lắm, ít người biết thương dân và lo cho dân như thế”. Chính vì nhận thấy Võ Xuân Cẩn là một vị quan luôn một lòng vì dân, vua Minh Mạng đã cử ông ra làm Hiệp trấn ở Nghệ An thay vua vỗ về dân này, “Nếu có những việc gì có tính ổn dân, cấm trộm cướp, chuẩn cho tuỳ tiện mà làm, rồi sau sẽ tâu lên”.

Tháng giêng năm Bính Tuất (1826), Võ Xuân Cẩn được triệu về Kinh để ra nhận chức Tuyên phủ Hoài Đức, tiếp đó chuyển về làm Hình tả Bắc Thành (Hà Nội). Một thời gian sau vua cho mời Võ Xuân Cẩn về kinh làm Hữu Tham tri Bộ Lại, rồi Thăng thự Thượng thư Bộ Công.

Năm Tân Mão (1831), vua Minh Mạng theo lối nhà Thanh đổi trấn thành tỉnh và đặt chức Tổng đốc (trong coi việc quân, việc dân, khảo hạch quan lại, sửa sang bờ cõi trong hạt). Đến năm 1833, Võ Xuân Cẩn được bổ làm Tổng đốc tỉnh Bình - Phú. Trong thời gian này, Nam Kỳ có loạn Lê Văn Khôi (1833-1835) chúng đã đánh và chiếm một số thành ở Biên Hoà, Phiên An... đặt chức nguỵ, tự xưng làm Đại Nguyên Soái. Khi bị triều đình cho quân vào đánh, Lê Văn Khôi cho người sang cầu cứu, vua Tiêm La bèn sai quân thuỷ bộ chia làm 5 đạo sang đánh Việt Nam. Một lần nữa triều đình ngoài việc dẹp loạn lại phải đối phó với nan giắc ngoại xâm.

Trước tình hình đó, sau khi nhận chức, Tổng đốc Bình – Phú Võ Xuân Cẩn ngoài việc chăm lo đời sống của nhân dân ông còn phải xây dựng lực lượng quân sự để đối phó khi có loạn. Lúc này, vệ quân Hương dõng ở Bình – Phú tăng lên đến 2.500 người. Tỉnh Bình – Phú nơi ông làm Tổng đốc đã góp phần đáng kể về sức người cũng như việc cung cấp quân nhu cùng với quân triều đình đánh bại quân Tiêm La (quân Xiêm) tháng 5 – 1834 và quân của Lê Văn Khôi (tháng 7 - 1835) chiếm lại được thành Phiên An (Gia Định). Sau việc này Võ Xuân Cẩn đã được vua Minh Mạng đánh giá là một vị quan có năng lực và cuối năm 1835 ông đã được thăng đến Hiệp biện Đại học sĩ, gia hàm Thái tử Thiếu bảo, lĩnh chức như cũ.

2. Võ Xuân Cẩn với việc cải cách điền địa năm 1839 ở Bình Định:

Trong thời gian làm Tổng đốc ở Bình – Phú, Võ Xuân Cẩn đã có rất nhiều đóng góp cho dân cho triều đình. Đáng kể nhất đó là việc cải cách ruộng đất năm 1839 ở Bình Định. Trong sách Đại Nam Liệt truyện do sử quán triều Nguyễn ấn hành cho chúng ta biết thời ấy (1839) mà có người muốn “cải cách ruộng đất”, lấy ruộng địa chủ (nhà giàu) chia cho nông dân (nhà nghèo) thật là quý hiếm.

Nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ XIX tỏ rõ một thái độ nhất quán trong việc duy trì, bảo vệ và mở rộng ruộng công làng xã. Nhà nước cấm các làng xã không được bán đất hay cầm cố ruộng đất công. Đồng thời với chủ trương trên Nhà Nguyễn cũng đã thi hành nhiều biện pháp nhằm tăng cường quỹ ruộng đất công. Từ Gia Long đến đầu Tự Đức, Nhà nước đã ban hành 24 quyết định mở rộng quỹ công điền (Gia Long 2; Minh Mạng 18; Thiệu Trị 2; Tự Đức 2), lấy từ ruộng đất do Nhà nước quản lý trực tiếp (58% số quyết định) từ kết quả khai hoang (29% số quyết định) và từ ruộng đất của tư nhân (13% số quyết định). Hai hình thức đầu không có gì đặc biệt vì đều nằm trong tầm tay của Nhà nước. Hình thức thứ 3 được chủ yếu thực hiện bằng áp chế từ trên xuống mà hiện tượng điển hình là việc thi hành phép quân điền ở Bình Định vào những năm cuối đời Minh Mạng.

Bình Định đến cuối đời Minh Mạng là nơi có tỷ lệ ruộng công thấp (bằng khoảng 10% ruộng tư). Tháng 11 năm Mậu Tuất (1838), Tổng đốc Bình – Phú (Bình Định – Phú Yên) là Võ Xuân Cẩn dâng tập thỉnh an lên vua Minh Mạng, nhận định việc quân điền, nghĩa là chia ruộng cho dân.

Ông tâu với vua rằng: “Các ruộng tư đều bị bọn hào phú chiếm cả, người nghèo không nhờ cậy gì”. ông đề nghị: “Phàm ruộng tư, cứ 5 mẫu làm hạn, còn thừa bao nhiêu thời làm ruộng công phân cấp cho dân, để làm lương điền khẩu quân”. Chủ trương trên không được áp dụng ngay, cho đến lúc Võ Xuân Cẩn được điều về Triều (1839) lĩnh chức Thượng thu Bộ Hình (Tư Pháp) kiêm quản viện Đô sát sung thực lục Tổng tài, triều đình mới tâu vua việc đề nghị cải cách điền địa ở Bình Định của Võ Xuân Cẩn , Bộ Hộ xem xét và thấy có thể làm được. Vua Minh Mạng bèn sai cả sáu bộ (Bộ Lại, Binh, Hình, Lễ, Công, Hộ) hội nhau cùng làm. Sáu bộ quyết định “các ấp nào mà ruộng tư nhiều hơn ruộng công thì chiết lấy một nửa ruộng tư, ấp nào mà đinh nhiều ruộng ít thì lấy thêm các ruộng công gần đó mà cung cấp, khiến cho binh lính và dân đều được nhờ lợi”.

Tháng 7 năm 1839, vua Minh Mạng sai Thượng thư Bộ Hình Võ Xuân Cẩn cùng vời Tham tri Bộ Hộ là Doãn Uẩn đến Bình Định thi hành phép chia đều ruộng, phái thêm thuộc viên theo làm, phát giấy kho và sổ sách. Đến tháng 10 năm 1839, việc cải cách được thực hiện xong. Vua Minh Mnạg cho rằng sự cải cách điền địa do Tổng đốc Bình – Phú là Võ Xuân Cẩn đề nghị về triều và Võ Xuân Cẩn cũng là người thi hành nên gia thưởng cho ông một cấp trác dị.

Thật ra Minh Mạng cũng cân nhắc nhiều trước khi quyết định phép chia ruộng ở Bình Định. Ông đã một lần từ chối đề nghị của Võ Xuân Cẩn về vấn đề này, coi đó là việc làm vô cớ. Tuy thế, ông và cả phần lớn triều đình lúc này dường như đã không nhìn ra một con đường nào khác vượt qua tư tưởng phục hội và mở rộng sở hữu công cộng. Cái khát khao cháy bỏng về một xã hội trong thế bình quân đến nhường ấy cuối cùng đã đưa Minh Mạng đến quyết định chia lại ruộng đất ở Bình Định tháng 7 năm 1839.

Như chúng ta đã biết ruộng đất ở Bình Định tập trung chủ yếu trong tay giai cấp địa chủ. Theo báo cáo của lãnh Tổng đốc Bình – Phú Võ Xuân Cẩn thì ruộng tư ở đây bị hào phú chiếm cả, có đến 100 – 200 mẫu mà người nghèo không một thước đất, suốt đời làm tôi tớ. Việc chia lại ruộng đất ở Bình Định chủ yếu đem lại ruộng đất cho nông dân nghèo (chủ trương đó đã tấn công trực tiếp vào các đại địa chủ). Biện pháp cải cách ruộng đất ở Bình Định rõ ràng nhằm ngăn cản quá trình tập trung ruộng đất trong tay giai cấp địa chủ, tăng cường sỡ hữu ruộng công làng xã, đem lại lợi ích cho giai cấp nông dân nghèo.

Trong khuôn khổ của giai cấp phong kiến nhưng Võ Xuân Cẩn là người có tầm nhìn xa, ý tưởng chia lại ruộng đất ở Bình Định là một việc làm mang tính đột biến vượt ra ngoài tầm nhìn của giai cấp phong kiến để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp nông dân nghèo. Dù rằng ý tưởng, chủ trương đúng nhưng trong quá trình thực hiện chưa đem lại hiệu quả cao. Bởi chính chủ trương này đã đánh vào giai cấp địa chủ mà chính giai cấp này đã có công giúp Nhà Nguyễn khôi phục nền thống trị, lại có thế lực kinh tế lớn và nắm quyền quản lý nông thôn. Kết quả của việc làm này chứng tỏ rằng tư tưởng phục hồi ruộng đất công đã trở nên không thực tế và tham vọng củng cố quyền lực của Nhà nước phong kiến đối với ruộng đất bằng biện pháp chuyên chế truyền thống đến lúc này đã không thực hiện được. Sự kiện Bình Định bị thất bại chính là do tham vọng của triều đình giải quyết một vấn đề kinh tế bằng các biện pháp phi kinh tế. Tuy nhiên, cải cách ruộng đất ở Bình Định 1839 đã gây nên những xáo động nhất định đối với tình hình chính trị, xã hội, diễn biến chế độ ruộng đất đương thời.

Với tất cả những việc làm của Võ Xuân Cẩn, ông xứng đáng được đánh giá là “một vị quan cách mạng phụng sự nhân dân” đúng như đánh giá của các nhà sử học đương thời được viết trong “Quốc sử tạp lục” trang 426: “Sự cải cách điền địa năm 1839 ở Bình Định là cả một cuộc cách mạng lớn lao, đem ruộng cho dân cày, hạn chế các đại điền chủ. Cách mạng này là một trong các công cuộc của Võ Xuân Cẩn”.

3. Võ Xuân Cẩn đối với sử học nửa đầu thế kỷ XIX:

Nửa đầu thế kỷ XIX nền sử học nước ta rất phát triển nhất là từ thời Minh Mạng trở đi. Trong những năm trị vì đất nước Minh Mạng đã làm rất nhiều việc về quân sự, giáo dục, văn hoá, sử học... Đối với sử học đáng kể nhất là việc Ông cho lập Quốc sử quán (năm 1821), vừa thu thập sách xưa, vừa biên soạn các bộ sử mới. Nhiều bộ sử lớn của Nhà nước đẫ ra đời như “Đại Nam Thực Lục”; “Minh Mạng chính yếu”...

Năm Minh Mạng thứ 20 (1840), vua thấy Hiệp Biện Đại học sõ Võ Xuân Cẩn là người cựu thần già lão, vả lại am hiểu việc cũ, bèn sai sung Tổng tài sở thực lục cùng Trương Đăng Quế khảo đính các sử tích.

Tổng tài 1 Trương Đăng Quế (Văn minh điện Đại học sĩ, lĩnh binh Bộ thương thư sung cơ mật viện Đại thần, quản lý khâm thiên giám, kiêm lĩnh Quốc tử giám sư vụ) cùng các phó tổng tài, Toản tu, Biên tu, Khảo hiệ Đăng lục Thu chưởng chép nên bộ Liệt Thánh thực lục chia làm tiền biên, chính biên.

Ngày 6 tháng 3 năm 1844 Tổng tài, Phó Tổng tài, Toản tu Quốc sử quán sau khi vâng mệnh soạn bộ Liệt Thánh thực lục tiền biên nay đã được hoàn thành.

Ngày 7 tháng 8 năm 1844, Thiệu Trị xem xong và cho khắc in.

Như vậy, tính từ năm Minh Mạng thứ 2 (1821) mở đặt sử cục, đến năm Thiệu Trị thứ 4 (1844), trải qua trong khoảng 25 năm bộ sách Liệt Thánh Thực lục tiền biên đã biên soạn xong. Đây là bộ sách lịch sử, ghi chép những sự kiện lịch sử từ năm 1558 đời Nguyễn Hoàng mà triều Nguyễn tôn là Thái tổ Dụ Hoàng đế đến năm 1778 đời Nguyễn Phúc Thuần (Duệ Tôn Hiếu Định hoàng đế) tức năm Cảnh Hưng thứ 37 (Lê Hiếu Tôn) gồm tất cả 219 năm. Với Đại Nam thực lục tiền biên cũng như chính biên (ghi chép những sự kiện lịch sử trước khi Gia Long lên ngôi 24 năm) chúng ta có thể hiểu nhiều mặt của xã hội Việt Nam thời kỳ đó. Đây là bộ sách do nhà Nguyễn biên soạn nhằm đề cao nhà Nguyễn đó là sự thật mà ai nấy đều biết, tuy nhiên bộ sách này cũng đã phản ánh được tình hình của xã hội Việt Nam và đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị, là tư liệu tốt cho những nhà làm công tác nghiên cứu các khoa học xã hội Việt Nam (sử học, văn học, triết học, kinh tế học, luật học, quân sự, văn hoá, tư tưởng...) trong khoảng thời gian 1558 đến năm 1888.

Do có những đóng góp nhất định về mặt sử học cho nên Thiệu Trị năm thứ 6 (1846), gặp khánh tiết, ban ơn gia chức Võ Xuân Cẩn là Ngự tiền Đại thần, cho bài đeo bằng ngọc. Vua Thiệu Trị mất (1847), Tự Đức lên ngôi (1848) Võ Xuân Cẩn kiêm lĩnh chức “Hoàng thân sư bảo” (Sư bảo của Hoàng thân) trông coi các bộ vụ như cũ.

4. Vai trò của Võ Xuân Cẩn đối với triều đình những năm 1840 – 1852:

Tháng 12 năm 1840, Minh Mạng mất, Thiệu Trị lên ngôi. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841), Võ Xuân Cẩn vẫn giữ chức Thượng thư Bộ Hình như trước, lại được gia thăng Thự Đông các Đại học sĩ và gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Lúc này Võ Xuân Cẩn lấy cớ tuổi đã 70 xin về hưu nhưng vua không cho và bảo: Nước có bầy tôi già là điềm thịnh.

Vua Thiệu Trị là một vị vua coi trọng việc chính trị. Mỗi ngày vào buổi sáng, buổi chiều Thiệu Trị lúc nào cũng triệu các quan đại thần như Võ Xuân Cẩn, Trương Đăng Quế, Tạ Quang Cự... vào điện Văn Minh để bàn việc chánh sự, khi quyết định một việc gì đều hỏi qua ý kiến của Võ Xuân Cẩn, Trương Đăng Quế. Chứng tỏ Thiệu Trị đã đánh giá rất cao năng lực của Ông.

Quốc triều chính biên toát yếu trang 336 viết rằng: “Vua Thiệu Trị cho Thượng thư Bộ Lại là Đăng Dinh kiêm lãnh chức Sư Bảo dạy hoàng tử và hoàng đệ. Lại đòi Thượng thư Bộ Lễ hưu trí là Nguyễn Đăng Tuân ra sung chức Sư Bảo. Ngài đòi Trương Đăng Quế, Võ Xuân Cẩn truyền rằng: Ta giao chức Sư Bảo cho Đăng Tuân, Đăng Dinh thế nào? Trương Đăng Quế và Võ Xuân Cẩn tâu rằng: “Hai người ấy tuổi tác và đức vọng đều hơn, thiệt là xứng chức”.

Võ Xuân Cẩn là một vị quan luôn vì dân, vì việc chính nghĩa, thấy những gì ảnh hưởng đến quyền lợi của người có công, ông đều dâng sớ để tâu xin.

Tháng 3 năm 1842, Đông các Đại học sĩ là Võ Xuân Cẩn dâng sớ xin ban ơn cho con cháu anh Duệ Thái tử - ông là con đức Thừa Thiên Hoàng hậu, khi ông mới 4 tuổi, vâng mệnh qua tây đến 6 năm mới về, Đức Cao hoàng phong là nguyên soái và lập làm Đông Cung. Ông có công giữ thành Gia Định, trấn thành Diên Khánh, lấy tỉnh Bình Thuận, thâu phục Phú Yên. Công nghiệp rực rỡ chẳng may mất sớm, con là Mỹ Đăng đã bị tội, Mỹ Thuỳ lại bị bệnh mất, chỉ còn lại một mình là Lệ Chung con của Mỹ Đăng được phong Cảm hoá hầu để làm Thừa tự. Võ Xuân Cẩn thấy vậy nên mới tâu xin. Ngài chuẩn cho Bộ Lễ phải ghi tên Lệ Chung rồi sẽ nghỉ. Về sau Lệ Chung được tấn phong Quận Công.

Năm 1842, Võ Xuân Cẩn được sung chức Khâm Sai đi theo vua Thiệu Trị tuần tra miền Bắc, đốc lý tra xét các vụ án.

Tháng 1 năm 1848, Võ Xuân Cẩn dâng sở ghi luận xin khai phục cho Lê Văn Duyệt, Nguyễn Văn Thành, Lê Chất với lời lẽ khảng khái, đôn hậu: 

“Sách Chu Lễ có 8 điều được bàn” để dung thứ người có tội, sách tả truyện có đề ra 10 đời được tha để đãi người có công. Lại nói rằng cứ theo án đã thành, thì tội (bọn họ) không thể chối được, nhưng xét về nguyên nhân phạm tội, thì tình cũng có thể thương được. Bọn Nguyễn Văn Thành, Lê Văn Duyệt, Lê Chất đều có lòng theo mây, đội gió, xông pha chỗ mũi tên hòn đạn, thân làm đại tướng tước đến Quận công, sau hoặc vì con dại, hoặc vì cậy công mà làm thành tội... Dù bọn Nguyễn Văn Thành có tội, thì tội cũng đã trị rồi, mà công thì không hỏi đến, chẳng hoá ra đem cái công lao bách chiến mà để đến nỗi các tàn hồn bơ vơ như ma trơi ngoài đồng, khác nào quỹ Mạc Ngan không ai thờ cúng không?”.

Vua Tự Đức rất cảm động về lời tâu của Võ Xuân Cẩn và con cháu của Võ Văn Thành về sau cũng được bổ làm chánh đội.

Việc Hoàng thượng chấp nhận các điều trần của Võ Xuân Cẩn thể hiện tất cả mọi việc trong triều đình, Võ Xuân Cẩn đều có ảnh hưởng rất lớn. Đạo cao đức trọng của ngài đã được nêu lên hết sức sáng ngời trong sử sách và lúc triều đình nghị sự.

Tự Đức năm thứ 3 (1850), Tự Đức thấy Võ Xuân Cẩn tuổi già, đức cao, đến kỳ đại đế, thưởng cho một cái kim khánh có chữ “Túc đức nguyên lão”.

Năm Tự Đức thứ 4 (1851), Võ Xuân Cẩn đến tuổi thọ bát tuần, các quan Bộ Lễ đem việc ấy tâu lên, xuất phát từ lòng mình nhà vua vô cùng khen ngợi, ban tặng Ngài tấm biển vàng đề bốn chữ “Hi triều kỳ thạc” và làm hai bài thơ tặng; vua Tự Đức còn ban tặng cho Võ Xuân Cẩn nhiều vật quý hiếm như Cửu Trượng (chiếc gậy đầu có chạm chim cưu 9 đốt), vàng, lụa... để mừng thọ.

Thơ rằng:

Phiên âm: Tứ triều di lượng biểu thuần trung,
Hựu bỉnh thuyên hành lý bách công,
Thiên hạ trung dung duy Bá Thuỷ,
Thế gian đức vọng trọng Văn Công,
Mã sử lân kinh đạo khởi cùng,
Nguyện đắc kỳ, di hoàn quắc thước,
Ích chương nhân thuỵ tán hoàng phong.

Dịch nghĩa:

Bốn triều kính tin tỏ ra là người thuần trung,
Lại giữ việc cất nhắc xếp đặt trăm quan,
Thiên hạ giữ đạo trung dung chỉ có một Bá Thuỷ,
Thế gian đức vọng phải tôn trọng Văn Công,
Tuy da gà tóc hạc nhưng tinh thần còn vượng,
Sử mã, Kinh Lân đạo Nho há có cùng đâu,
Mong được thọ đến trăm tuổi mà còn quắc thước,
Để tỏ điềm hay bằng người thọ, giúp cho phong hoá của nhà vua.

Dịch thơ: (Nguyễn Tú lược dịch)

Bốn triều tin cậy rõ người trung
Quyền nắm trăm quan sắp xếp chung
Thiên hạ trung trinh duy Bá Thuỷ
Thế gian đức độ chỉ Văn Công
Da gà, tóc hạc tinh thần vững
Sử: Mã, kinh: Lân, đạo chẳng cùng
Mong thọ trăm năm còn minh mẫn
Rạng danh văn đức, sáng thuần phong.

Bài thứ 2: 

Phiên âm:
Tằng văn nhân thị thánh ngôn truyền.
Nguyên vị bình sinh vạn thiện toàn.
Ngu Hạ tác nhân do thượng sĩ.
Triều đình hưng hiếu khởi di niên.
Thái chỉ bất tổ Thương sơn khách.
Đồng giáp ưng khai Lạc xã diên.
Tha nhật Vân đài như hứu hội,
Chỉ luân huân nghiệp khuyến lai hiền.

Dịch nghĩa:
Từng nghe thánh nói người nhân thì được thọ,
Vì lúc bình sinh làm mọi việc đều hay cả,
Nhà Ngu, nhà Hạ đào tạo nhân tài còn chuộng người tuổi già,
Triều đình khuyên hiếu há bỏ quân người già, 
Không bàn đến những người hái cỏ chi ở núi Thượng Sơn,
Những người cùng tuổi nên mở yến tiệc ở Lạc xã,
Ngày khác Vân đài như có vẽ tượng các công thần.
Chỉ bàn công nghiệp để khuyên người hiền sau này.

Dịch thơ: (Nguyễn Tú lược dịch)

Người nhân đắc thọ thánh nhân truyền
Bởi lúc bình sinh việc thiện chuyên
Ngu, Hạ chọn tài còn trọng lão
Triều đình chuộng hiếu quý cao niên.
Thượng Sơn thôi luận người cắt cỏ
Lạc xã nên bàn Hội lão Tiên
Nếu gác Vân Đài mà vẽ tượng.
Chỉ nêu công nghiệp để khuyên hiền.

Mùa xuân năm Tự Đức thứ 5 (1852), Võ Xuân Cẩn thấy trong mình tuổi già, nhiều bệnh ông có lời thỉnh cầu xin về nghỉ. Dù vô cùng luyến tiếc sự ra đi của Võ Xuân Cẩn, nhưng biết rằng không thể lưu giữ ông lại được nên phải đồng ý với lời tâu xin của Võ Xuân Cẩn. Vua Tự Đức nói: Các bậc Đại thần thưở xưa dùng đạo nghĩa để định lúc ở lúc về, cốt ở chỗ “Danh thành thân thoái” mà thôi, nên trẫm phải có những lời thành thật tỏ ra khen ngợi cái chí trọn đời phục vụ mà không biết mệt mỏi của Võ Xuân Cẩn. Trước khi cho Võ Xuân Cẩn nghỉ hưu, vua Tự Đức đã sai thị vệ ở quan nội các mang chỉ dụ đến thăm hỏi ông và hỏi ý kiến ông về những việc cần làm cho dân giầu nước mạnh.

Võ Xuân Cẩn cũng không vì tuổi già sức yếu mà còn dâng sớ trình bày bốn việc:

1. Năm nào được mùa, giá thóc rẻ, triều đình nên mua vào với giá cao hơn thị trường để dự trữ, khi mất mùa đem ra bán với giá hạ hơn thị trường và phát chẩn cho dân nghèo, đói.

2. Lính ở miền Nam nên giảm, 6 đinh nên giảm một lính. Lính ở miền Bắc, lệ tuyển như cũ nhưng hàng năm nên cho về kinh thao diễn rồi lưu lại làm việc 6 tháng. Lính ở kinh đô thì đầu mùa xuân kiểm duyệt xong, chia làm hai ban, một ở lại, một ban về.

3. Con trai, con gái của các vương, công nên cho phép cùng các con trai, con gái, em, cháu (chú, bác) của các văn võ tứ phẩm trở xuống được lấy nhau; nếu có người nào theo làm việc mà xuất thân do văn khoa, võ tuyển thì cho phép cùng được bổ dụng.

4. Xin phong cho mẹ đẻ của Mai Anh Tuấn, nguyên án sát tỉnh Lạng Sơn đã chết vì nhiệm vụ.

Sau khi đọc sớ của Võ Xuân Cẩn , vua Tự Đức sai triều thần chọn lấy những đề nghị nào làm được thì làm.

Tháng 2 năm 1852, Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn được vua ban hàm Thái Bảo cho về hưu, được thưởng một nửa số lương tháng và dụ rằng: Nếu có nghe thấy ẩn tình của dân, chính trị có điều thiếu sót, cho phép đi ngựa trạm đến tâu. Ngày Võ Xuân Cẩn về quê, vua Tự Đức còn chế thêm thẻ bài “Thái Bảo”, ban tặng bài thơ “Tống hành” với nhiều quà cáp, lụa, vàng, lại sai đem quan thuyền đưa ông về quê. Tiễn Võ Xuân Cẩn các quan công khanh sắp hàng ngoài cửa đô tặng ông chiếc gậy “Thọ linh” để ông về dạo chơi trên dòng Cúc Đàm. ấy thế cho nên người ta cho rằng, tuổi thọ của ông được các bậc đai mũ tôn vinh, xóm làng truyền tụng.

Khi Thái Bảo Đông các Đại học Võ Xuân Cẩn về quê, đường làng không lúc nào vắng, luôn có người đến thăm. Vua Tự Đức sai Bố Chính Quảng Bình mang tờ dụ đến nhà hỏi thăm sức khoẻ, lại sai Trung sứ mang thứ thuốc bổ dưỡng của vua dùng đến ban cho.

Trong suốt 50 năm làm quan dưới bốn triều (Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức), tám lần ứng vụ nhiều nơi, chín lần giữ chức vụ ở các đại sảnh, Võ Xuân Cẩn đều tỏ ra là một tay thông thạo trong việc chọn người , âm thầm tiến cử nhân tài. Từ việc trong coi Quốc Tử Giám, tu chính quốc sử, xem xét việc học hành của các hoàng tử... hầu hết các chức vụ trọng yếu trong triều đình ông đều đảm đương tốt, ông có khả năng giữ cho đất nước được thái hoà. Những ngày rảnh rỗi, ông thường đi thăm những nơi tôn nghiêm, vườn hoa, cây cảnh, để thanh thản tuổi già, khiến cho mọi người trong triều đều gọi ông là bậc “Lão thành”, thiên hạ tôn ông là hạng người “Tam đạt” (Tước cao; đức lớn; sống lâu). Nếu Võ Xuân Cẩn không phải là hạng người trung can, cần mẫn thì đâu đủ để thánh chúa tin yêu; không phải là hạng người khiêm tốn hoà nhã thì đâu thể gom nhiều phúc lớn[16]. Càng già tính ông càng nhiều trầm tĩnh, kín đáo, trung thực. Ông thường suy nghĩ kỹ lưỡng về con đường tiến lui trên trường chính trị, mấy lần khẩn thiết dâng sớ xin về nghỉ hưu nhưng đến tháng 2 năm 1852 vua Tự Đức mới đồng ý.

Tháng 4/1852, Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn mất, thọ 81 tuổi. Vua Tự Đức thương tiếc ban sắc hậu cấp vàng, lụa, sửa việc tang, sai quan đến tế, cho tên thuỵ là Văn Đoan. Ngày 9/7/1852 vua Tự Đức sai Bộ Lễ cùng quan nội các Nguyễn Cửu Trường, Nguyễn Tư Giản, Phạm Thanh đem bài thơ và bài minh của vua làm cho khắc vào bia đá dựng ở chỗ đầu làng, nhan đề rằng: “Tứ triều nguyên lão” (Ông lão có đức vọng lớn ở bốn triều).

Lời minh rằng:

Đại Nam nhất rạng Cảnh vật mới luôn
Trời sinh người tài Đời có kỳ lão
Đầu Mâu núi cao Lê hải sóng gào
Sinh thực con người Trí lớn tài cao
Ấy Ngài Văn Đoan Học từ thưở nào
Nguỵ triều nhơ nhớp Giữ mình thanh cao
Trời sinh loạn lạc Người chịu lao đao
Ngài thì nhất quyết Lặn lội tìm vua
Đường dài muôn tỏ Siêng năng từ đầu
Tướng thần góp võ Ngài thì giúp văn
Đất nước bình yên Dùng Ngài chăn dân
Thuốc chữa bệnh tật Nuôi dân đói nghèo
Lặn lội tìm sông Trời Nam ải bắc
Trải khắp tám châu Rập công giúp chúa
Sừng sững quan toà Phân minh phải quấy
Triều đình đánh giá Ngài có tài năng
Chọn làm cận thần Chân tay tai mắt
Đóng vai gia tể Trong coi các phiên
Cả việc học hành Quốc tử giám sanh
Kiêm cả Tổng tài Giám tu Quốc sử
Gồm cả các việc Thần tổ thánh tôn
Vua ban bốn chữ “Tứ triều nguyên lão”
Mọi người kính cẩn Xưng bậc tam tôn
Ngài thọ tám mươi Vua quan mừng rỡ
Vua ban ngự chế Bài thơ tặng Ngài
Lúc bảy mươi tuổi Ngài xin “treo xe”
Vua rằng chưa được Giúp con trọn đời
Sắp tròn một kỷ Nhớ lời thề xưa
Danh Ngài toại nguyện Thân Ngài nhàn rỗi
Giữ trọn lòng thành Nghĩ sao nói vậy
Cổ xe bốn ngựa Thành công hãy về
Phương nam mới phục Ngài giúp triều đình
Từ Ngài về qui Vua có ân mệnh
Vàng bạc châu báu Trọng đãi lão thành
Sóng dạt về đông Sao mai hiếm thấy
Ai mà không nghĩ Tìm lại người xưa
Thiên hạ đều mong Cụ già cố gượng
Vua luôn ghi nhớ Một bậc đỉnh thần
Suốt đời chỉ nghỉ Đất nước bằng an
Vua ban điếu phúng Ân lễ đủ đầy
Bài thơ để nhớ Mỹ thuỵ để thờ
Ngài sống hiển vinh Chết người thương tiếc
Thân về nội cỏ Danh lưu muôn đời
Mỹ nhân cứu nước Trinh nhân của vua
Xương thịt đời đời Nghìn thu nối dõi
Ngày tháng có kỳ Quan cách đưa đi
Văn chương siêu thái Nét bút rồng tiên
Ân mệnh vua ban Chạm vào hoàng nhưỡng
Đá cứng đứng mãi Sáng chói phô bày
Vua ban bi minh Thần ở nơi này.

Năm Tự Đức thứ 11 (1858), bài vị của Võ Xuân Cẩn được đưa vào thờ ở đền Hiền Lương.

Nói tóm lại từ khi bước chân trên con đường hoan lộ cho đến khi về với tổ tiên, Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn là một văn quan có tài, một lòng vì nước vì dân. Những đóng góp của ông là rất lớn cần được lịch sử ghi nhận. Ông là một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng và cũng rất đặc biệt (một vị quan dưới bốn triều vua mà vua nào cũng rất trọng dụng), xứng đáng được xếp vào hàng các danh nhân nổi tiếng.

Sau khi triều đình Huế để đất nước lọt vào tay Pháp thì một thời gian dài chúng ta có quan niệm nhà Nguyễn (1802 - 1945) là xấu, nên làm quan dưới triều Nguyễn là có vấn đề. Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn cũng năm trong số phận đó. Ngày nay, khi giai đoạn lịch sử dưới triều Nguyễn được đánh giá lại, khách quan hơn thì Võ Xuân Cẩn được đặt đúng vị trí lịch sử với những công lao của Ông.

Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn có hai người vợ: Vợ cả họ Bạch và vợ thứ họ Trần, sinh ra con gái thứ là Trang ý Thuận hiếu Thái hoàng Thái hậu. Khoảng năm Tự Đức ban ân trong nội đình bà Trần Thị được tặng là nhất phẩm phu nhân. Đồng Khánh năm ất Dậu (1885) gia phong cho Võ Xuân Cẩn là Lệ Quốc Công và cho làm nhà thờ ở làng Hoà Luật để thờ phụng. Lại truy tôn đến đời trước, phong cho bốn đời: Cao tổ, gia tặng là: Trang Thuận đại phu, Hồng lô tự khanh, tên thuỵ là Lượng Uyên. Tằng tổ, gia tặng là Trang Thuận đại phu, Hàn lâm viện, thị độc học sĩ, Thế lộc tử, tên thuỵ là Đoan Phác. Ông, gia tặng là Gia Nghị đại phu, Hàn lâm viện chưởng viện học sĩ, Đức hoà bá, thuỵ là đôn Trực. Cha, y theo như trước, tặng là Tư Thiện đại phu, hàm Thượng thư, gia phong là Thuận Xương hầu, tên thuỵ là Đôn Nhã, thờ riêng ở đền Tích Chi.

Võ Xuân Cẩn có bốn con trai, con trưởng là Võ Xuân Phúng, thụ hàm Hàn lâm viện thị giảng học sĩ; con thứ là Võ Xuân Nhân, làm tri phủ phủ Trùng Khánh; con thứ nữa là Võ Xuân Hội, làm trang tri Bộ Công; con thứ nữa là Võ Xuân Đạm, hàm tu soạn. Năm Đồng Khánh thứ 2 (1886), lại tập ấm cho các cháu có thứ bậc khác nhau, cho cháu thứ là Võ Xuân Bí làm cấm binh chánh đội, coi giữ việc thờ đền Quốc Công.

Con gái của Ngự tiền Đại thần Thái tử Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Đặc Tiến Kim Tỉ vinh lộc Đại phu Lệ Quốc Công Võ Xuân Cẩn và bà vợ họ Trần là Lệ Thiên Anh Hoàng hậu – vợ của vua Tự Đức. Bà sinh năm Mậu Tý (1828), huý là Võ Thị Duyên. Ngay từ lúc còn nhỏ, là con nhà dòng dõi, bà được giáo huấn rất kỷ nên có đủ bốn đức: công, dung, ngôn, hạnh, tính tình đoan trang, lời ăn tiếng nói dịu dàng, khi lớn lên bà thích đọc sử sách nên hầu như truyện xưa tích cũ bà đều làu thông. Năm Quý Mão (1843), bà được tiến cung hầu hạ Hoàng tử Hồng Nhậm. Đối với Nghi Thiên chương hoàng hậu (vợ vua Thiệu Trị) bà rất kính cẩn hầu hạ nên được thương mến ngợi khen .

Năm Mậu Thân (1848), vua Tự Đức đăng vị. Lúc đầu bà được phong cung tần. Vào tháng 5 năm Tự Đức thứ ba (tức tháng 6 năm 1850), nhà vua đã xuống dụ định rõ thứ bậc và dang xưng cho các bà trong nội cung, bà Võ Thị Duyên được phong Cần Phi. Năm 1860 lại được tấn phong Thuận Phi sau cải phong Trung Phi, cho đến năm 1870 bà được tấn phong Hoàng Quý Phi trông coi 6 viện.

Năm Quý mùi (1883), vua Tự Đức băng hà để lại di chiếu cho vua Dục Đức tấn tôn bà làm Hoàng hậu nắm quyền coi sóc 6 viện cũng như chăm lo giáo huấn cho tự quân (tức là vua Dục Đức). Nhưng vua Dục Đức lên vua mới 3 ngày thì bị hai quan phụ chính Đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết phế và đưa Văn Lãng Công Nguyễn Phúc Hồng Dật em của vua Tự Đức lên ngôi tức là vua Hiệp Hoà.

Theo di chiếu của vua Tự Đức, Tôn Nhân Phủ cùng với triều thần tôn bà làm Hoàng hậu ở cung Gia Thọ, nhưng bà từ chối và ban dụ rằng: “Ta phụng chiếu dạy dỗ Tự quân mà nay Tự quân như thế này thì ta có lỗi, chỉ xin lên Khiêm cung để phụng hầu”. Cuối cùng , sau khi bàn bạc, Tôn Nhân Phủ cùng triều thần mới tấn tôn bà là Khiêm hoàng hậu.

Vua Hiệp Hoà bị hại, vua Kiến Phúc sau 8 tháng làm vua cũng bị hại. Triều đình phải lập Ưng Lịch con của Kiên Thái Vương lên ngôi, tức vua Hàm Nghi. Ngày 23 tháng 5 năm Ất Dậu, sau cuộc binh biến do Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường chủ xướng chống lại quân Pháp thất bại. Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi chạy ra Tân Sở phát hịch Cần Vương, kinh thành Huế thất thủ, Lưỡng cung cùng hoàng tộc cùng chạy ra Quảng Trị và dừng lại ở đó. Tại Huế, vua Đồng Khánh được Pháp đưa lên ngôi và sau khi Nguyễn Văn Tường liên hệ với Pháp xong, Lưỡng cung trở lại Khiêm lăng và sau đó trở về nội cung.

Đến tháng 3 năm 1887, bà Võ Thị Duyên được tấn tôn Trang ý Hoàng Thái hậu, đến năm 1889 lại tấn tôn Trang ý Thuận Hiếu Thái Hoàng Thái hậu.

Năm Nhâm Dần 1902, bà qua đời, thọ 75 tuổi, vua Thành Thái dâng tên thuỵ là Lệ Thiên Phụ Thánh Trang ý Thuận Hiếu Cần Thứ Ôn Từ Hiền Minh Tĩnh Thọ Anh Hoàng hậu. Lăng bà hiện nay nằm trong khuôn viên Khiêm lăng gọi là Khiêm Thọ Lăng (Huế).

Thái Bảo Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn là một vị “Tứ triều nguyên lão”, một nhân vật lịch sử khá nổi tiếng và cũng rất đặc biệt. Ông làm quan dưới 4 triều vua mà vua nào cũng rất trọng dụng. Ông đã có những đóng góp to lớn trong việc xây dựng đất nước trong suốt 50 năm làm quan của mình (1802-1852), từ Tổng đốc Bình Định- Phú Yên, rồi làm quan Đông các ở triều…Đặc biệt, Võ Xuân cẩn đã có những cống hiến to lớn trong cuộc cải cách điền đia 1839 ở Bình Định, được lịch sử đánh giá như một cuộc cách mạng cho dân cày, hạn chế các đại điền chủ phát triển. Đối với nền Sử học thế kỷ thứ XIX, Đông các Đại học sĩ Võ Xuân Cẩn cũng có những đóng góp nhất định trong việc biên soạn các bộ sách sử của triều Nguyễn. Cuộc đời, sự nghiệp và tên tuổi của Ông mãi mãi gắn liền với lịch sử của mảnh đất Quảng Bình nói riêng và cả nước nói chung.